Tam tạng Thánh điển PGVN 03 » Tam tạng Thượng Tọa bộ 03 »
Kinh Tương Ưng Bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tương Ưng Bộ// IV. THIÊN SÁU XỨ/ 35. TƯƠNG ƯNG SÁU XỨ/ PHẦN HAI: NĂM MƯƠI KINH THỨ HAI/ VII. PHẨM MIGAJĀLA
I. KINH MIGAJĀLA THỨ NHẤT (Paṭhamamigajālasutta)25 (S. IV. 35)
63. Nhân duyên ở Sāvatthi.
Tôn giả Migajāla đi đến Thế Tôn... Ngồi xuống một bên, Tôn giả Migajāla bạch Thế Tôn:
– “Sống một mình! Sống một mình!”, bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Bạch Thế Tôn, cho đến như thế nào là sống một mình? Và cho đến như thế nào là sống có người thứ hai?
– Này Migajāla, có những sắc do mắt nhận thức, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ, tán dương và trú với lòng tham luyến sắc ấy; do vị ấy hoan hỷ, tán dương và trú với lòng tham luyến sắc ấy nên hỷ (nandi) khởi lên. Do hỷ có mặt nên dục tham (sārāga) có mặt. Do dục tham có mặt nên triền phược có mặt. Bị trói buộc bởi hỷ triền phược, này Migajāla, nên Tỷ-kheo được gọi là người sống có người thứ hai.
... có những tiếng do tai nhận thức... có những hương do mũi nhận thức... có những vị do lưỡi nhận thức... có những xúc do thân nhận thức...
Này Migajāla, có những pháp do ý nhận thức, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ, tán dương và trú với lòng tham luyến pháp ấy; do vị ấy hoan hỷ, tán dương và trú với lòng tham luyến pháp ấy nên hỷ khởi lên. Do hỷ có mặt nên dục tham có mặt. Do dục tham có mặt nên triền phược có mặt. Bị trói buộc bởi hỷ triền phược, này Migajāla, nên Tỷ-kheo được gọi là người sống có người thứ hai.
Tỷ-kheo sống như vậy, này Migajāla, dầu cho đến ở các trú xứ xa vắng, các khóm rừng, các khu rừng, ít tiếng động, ít ồn ào, khỏi hơi thở quần chúng (vijanavāta), vắng người, thích hợp với tịnh; dầu vậy, vẫn được gọi là sống có người thứ hai.
Vì sao? Vì rằng ái, người thứ hai, chưa được đoạn tận, cho nên được gọi là sống có người thứ hai.
Và này Migajāla, có các sắc do mắt nhận thức, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ, không tán dương và trú với lòng không tham luyến sắc ấy; thời do vị ấy không hoan hỷ, không tán dương và trú với lòng không tham luyến sắc ấy nên hỷ đoạn diệt; thời do hỷ không có mặt nên dục tham không có mặt. Do dục tham không có mặt nên triền phược không có mặt. Do không bị trói buộc bởi hỷ triền phược, này Migajāla, nên Tỷ-kheo được gọi là người trú một mình.
Này Migajāla, có những tiếng… hương… vị… xúc…
Này Migajāla, có những pháp do ý nhận thức, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ, không tán dương và trú với tâm không tham luyến pháp ấy; thời do vị ấy không hoan hỷ, không tán dương, trú với tâm không tham luyến pháp ấy nên hỷ đoạn diệt. Do hỷ không có mặt nên dục tham không có mặt. Do dục tham không có mặt nên triền phược không có mặt. Do không bị trói buộc bởi hỷ triền phược, này Migajāla, nên Tỷ- kheo được gọi là người trú một mình.
Tỷ-kheo sống như vậy, này Migajāla, dầu có ở giữa làng tràn đầy những Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, vua chúa, đại thần của vua, các ngoại đạo và các đệ tử của các ngoại đạo, vị ấy vẫn được gọi là vị sống một mình.
Vì sao? Vì rằng ái, người thứ hai, được đoạn tận, do vậy được gọi là sống một mình.
Tham chiếu:
25 Tên kinh này và kinh kế tiếp trong bản tiếng Anh của PTS viết: By Migajāla, nghĩa là Tôn giả Migajāla.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.