Viện Nghiên Cứu Phật Học

Phật giáo nguyên thuỷ/ Kinh Tạng Pali/ Kinh Tương Ưng Bộ// III. THIÊN UẨN/ 22. TƯƠNG ƯNG UẨN NĂM MƯƠI KINH GIỮA/ IX. PHẨM TRƯỞNG LÃO 

VIII. KINH CHANNA (Channasutta)124 (S. III. 132)

90. Một thời, nhiều Tỷ-kheo trưởng lão trú ở Bārāṇasī, Isipatana, tại Lộc Uyển.

Rồi Tôn giả Channa,125 vào buổi chiều, từ chỗ tịnh cư đứng dậy, cầm chìa khóa, đi từ tinh xá này đến tinh xá khác và nói với các Tỷ-kheo trưởng lão:

– Chư Tôn giả trưởng lão, hãy giáo giới cho tôi! Chư Tôn giả trưởng lão, hãy giảng dạy cho tôi! Chư Tôn giả, hãy thuyết pháp cho tôi, để tôi có thể thấy được pháp.

Được nghe nói vậy, các vị Tỷ-kheo trưởng lão nói với Tôn giả Channa:

– Sắc, này Hiền giả Channa, là vô thường; thọ là vô thường; tưởng là vô thường; hành là vô thường; thức là vô thường. Sắc là vô ngã; thọ... tưởng... hành... thức là vô ngã. Tất cả các hành là vô thường, tất cả các pháp là vô ngã.126

Rồi Tôn giả Channa suy nghĩ như sau: “Ta cũng suy nghĩ như vầy: ‘Sắc là vô thường; thọ... tưởng... hành... thức là vô thường. Sắc là vô ngã; thọ... tưởng... hành... thức là vô ngã. Tất cả các hành là vô thường, tất cả pháp là vô ngã.’ Nhưng tâm của ta không hướng đến sự tịnh chỉ tất cả các hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, sự đoạn diệt khát ái, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn; không có thoải mái; không có an trú; không có hướng về. Do sự tham luyến (paritassanā), chấp thủ khởi lên, tâm ý trở lui lại tư tưởng: ‘Có phải tự ngã của ta sinh hoạt?’ Như vậy, thời ta không thể thấy pháp. Ai có thể thuyết pháp cho ta để ta có thể thấy pháp.”

Rồi Tôn giả Channa suy nghĩ: “Đây là Tôn giả Ānanda, hiện trú ở Kosambī, tại vườn Ghosita, được bậc Đạo sư tán thán và các bậc đồng Phạm hạnh có trí kính trọng. Tôn giả Ānanda có thể thuyết pháp cho ta để ta có thể thấy pháp. Và cho đến như vậy, ta có lòng tin tưởng đối với Tôn giả Ānanda. Vậy ta hãy đi đến Tôn giả Ānanda.”

Rồi Tôn giả Channa, sau khi dọn dẹp chỗ nằm của mình, cầm y bát đi đến Kosambī, vườn Ghosita, chỗ Tôn giả Ānanda ở; sau khi đến, nói với Tôn giả Ānanda những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Channa nói với Tôn giả Ānanda:

– Một thời, này Hiền giả Ānanda, tôi ở Bārāṇasī, Isipatana, tại Lộc Uyển. Rồi vào buổi chiều, này Hiền giả, tôi từ chỗ tịnh cư đứng dậy, cầm chìa khóa, đi từ tinh xá này đến tinh xá khác, sau khi đến, nói với các Tỷ-kheo trưởng lão: “Chư Tôn giả trưởng lão, hãy giáo giới cho tôi! Chư Tôn giả trưởng lão, hãy giảng dạy cho tôi! Chư Tôn giả trưởng lão, hãy thuyết pháp cho tôi, để tôi có thể thấy pháp.”

Được nghe nói vậy, này Hiền giả, các Tỷ-kheo trưởng lão nói với tôi: “Sắc, này Hiền giả Channa, là vô thường; thọ... tưởng... hành... thức là vô thường. Sắc là vô ngã; thọ... tưởng... hành... thức là vô ngã. Tất cả các hành là vô thường, tất cả các pháp là vô ngã.”

Về vấn đề ấy, này Hiền giả, tôi suy nghĩ như sau: “Ta cũng suy nghĩ như vầy: ‘Sắc là vô thường... thức là vô thường. Sắc là vô ngã; thọ... tưởng... hành... thức là vô ngã. Tất cả các hành là vô thường, tất cả các pháp là vô ngã.’ Nhưng tâm của ta không hướng đến sự tịnh chỉ tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, sự đoạn diệt khát ái, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn; không có thoải mái; không có an trú; không có hướng về. Do sự tham luyến, chấp thủ khởi lên, tâm ý trở lui lại tư tưởng: ‘Có phải tự ngã của ta sinh hoạt? Như vậy, thời ta không thể thấy pháp. Ai có thể thuyết pháp cho ta, để ta có thể thấy pháp?”’

Rồi về vấn đề này, này Hiền giả, tôi suy nghĩ như sau: “Đây là Tôn giả Ānanda, hiện trú ở Kosambī, tại vườn Ghosita, được bậc Đạo sư tán thán và các bậc đồng Phạm hạnh có trí kính trọng. Tôn giả Ānanda, có thể thuyết pháp cho ta để ta có thể thấy pháp. Và cho đến như vậy, ta có lòng tin tưởng đối với Tôn giả Ānanda. Vậy ta hãy đi đến Tôn giả Ānanda.”

Tôn giả Ānanda, hãy giáo giới cho tôi! Tôn giả Ānanda, hãy giảng dạy cho tôi! Tôn giả Ānanda, hãy thuyết pháp cho tôi, để tôi có thể thấy pháp.

– Cho đến như vậy, thật sự tôi rất hoan hỷ đối với Tôn giả Channa. Tôn giả Channa đã làm cho sự việc rõ ràng. Tôn giả Channa đã phá vỡ chướng ngại.127 Hãy lóng tai, này Hiền giả Channa! Hiền giả có thể hiểu được Chánh pháp.

Ngay lúc ấy, Tôn giả Channa khởi lên hoan hỷ, hân hoan thù thắng khi nghe đến: “Hiền giả có thể hiểu được Chánh pháp.”

– Này Hiền giả Channa, tôi tận mặt nghe Thế Tôn, tận mặt nhận lãnh từ Thế Tôn lời giáo giới này cho Kaccānagotta: “Thế giới này dựa trên hai [quan điểm], này Kaccāna, hiện hữu và không hiện hữu. Ai thấy như thật với chánh trí tuệ sự tập khởi của thế giới, thì không chấp nhận sự không hiện hữu của thế giới. Nhưng này Kaccāna, ai thấy như thật với chánh trí tuệ sự đoạn diệt của thế giới, thì cũng không chấp nhận sự hiện hữu của thế giới. Thế giới này phần lớn, này Kaccāna, là chấp thủ các phương tiện và bị trói buộc bởi thành kiến. Với ai không đi đến, không chấp thủ, không an trú vào chấp thủ các phương tiện, tâm không an trú vào thiên kiến tùy miên, vị ấy không nói: ‘Đây là tự ngã của tôi.’ Với ai nghĩ rằng: ‘Cái gì khởi lên là đau khổ, cái gì diệt là đau khổ’,128 vị ấy không có phân vân, nghi hoặc. Trí ở đây không mượn nhờ người khác. Cho đến như vậy, này Kaccāna, là Chánh trí.

‘Tất cả đều có’, này Kaccāna, là một cực đoan. ‘Tất cả đều không có’, là một cực đoan. Không chấp nhận hai cực đoan ấy, này Kaccāna, Như Lai thuyết pháp một cách Trung đạo. Do duyên vô minh nên hành khởi; do duyên hành nên thức khởi... Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này. Do sự ly tham, đoạn diệt vô minh không có dư tàn nên các hành diệt... Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.”

– Như vậy, này Hiền giả Ānanda, là điều sẽ đến với các bậc Tôn giả nào có được những đồng Phạm hạnh như vậy, những vị có lòng từ mẫn, những vị muốn sự lợi ích, những vị giáo giới, những vị giảng dạy. Nghe được lời thuyết pháp này từ Tôn giả Ānanda, tôi được an trú vững chắc trong Chánh pháp.

Tham chiếu:
124 Tham chiếu: Tạp. 雜 (T.02. 0099.262. 0066b06).
125 Channa đây có thể là Channa trong Thag. v. 69. Theo Chú giải, đây chỉ cho Channa, người giữ ngựa của Thái tử Tất-đạt-đa, con của một nữ tỳ, sinh cùng ngày với Thái tử và sau này cũng xuất gia trong Tăng đoàn.
126 Trong Chú giải, câu hỏi được đặt ra: “Vì sao chỉ nói hai sự thật, không nói đến ba?” Câu trả lời: “Vì nói tất cả các pháp là khổ, thì sẽ bị kết luận là Đạo và Quả cũng khổ.”
127 Āvi akāsi khīlaṃ chindi. Āvi akāsi: Đã làm cho mọi việc rõ ràng. Khīlaṃ chindi: Đã đoạn dứt chướng ngại [của tâm]. Xem S. I. 193; Sn. v. 973.
128 Xem S. I. 135.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.