Viện Nghiên Cứu Phật Học

Phật giáo nguyên thuỷ/ Kinh Tạng Pali/ Kinh Tương Ưng Bộ// III. THIÊN UẨN/ 22. TƯƠNG ƯNG UẨN NĂM MƯƠI KINH GIỮA/ IX. PHẨM TRƯỞNG LÃO 

IV. KINH ANURĀDHA (Anurādhasutta)114 (S. III. 116)

86. Như vầy tôi nghe.

Một thời, Thế Tôn ở Vesāli, Đại Lâm, tại Trùng Các giảng đường.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Anurādha115 ở một cái chòi trong rừng, không xa Thế Tôn bao nhiêu.

Rồi nhiều du sĩ ngoại đạo đi đến Tôn giả Anurādha; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Anurādha những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các du sĩ ngoại đạo ấy nói với Tôn giả Anurādha:

– Này Hiền giả Anurādha, bậc Như Lai ấy là Tối thượng nhân, Tối thắng nhân, đã đạt được Tối thắng quả; bậc Như Lai ấy được xem là đã tuyên bố theo bốn trường hợp: “Như Lai tồn tại sau khi chết; Như Lai không tồn tại sau khi chết; Như Lai tồn tại và không tồn tại sau khi chết; Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết.”

Được nghe nói vậy, Tôn giả Anurādha nói với các ngoại du sĩ đạo ấy:

– Này chư Hiền, bậc Như Lai, Tối thượng nhân, Tối thắng nhân, bậc đã đạt được Tối thắng quả; bậc Như Lai ấy được xem là đã tuyên bố ra ngoài bốn trường hợp như sau: “Như Lai tồn tại sau khi chết; Như Lai không tồn tại sau khi chết; Như Lai tồn tại và không tồn tại sau khi chết; Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết.”

Được nghe nói vậy, các du sĩ ngoại đạo nói với Tôn giả Anurādha như sau:

– Hoặc là vị Tỷ-kheo này mới tu học, xuất gia không bao lâu; hay vị này là vị trưởng lão, nhưng ngu dốt không có học tập.

Rồi các du sĩ ngoại đạo ấy sau khi chỉ trích Tôn giả Anurādha là mới tu học, là ngu si, liền từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.

Rồi Tôn giả Anurādha, sau khi các du sĩ ngoại đạo ấy ra đi không bao lâu, liền suy nghĩ như sau: “Nếu du sĩ ngoại đạo ấy hỏi ta thêm câu hỏi nữa, ta phải trả lời như thế nào để khi ta nói với các du sĩ ngoại đạo ấy, ta nói lên quan điểm của Thế Tôn; ta không xuyên tạc Thế Tôn với điều không thật; ta có thể trả lời tùy pháp, thuận với Chánh pháp; và ai là người đồng pháp, nói lên lời thuận với quan điểm của Ngài, sẽ không tìm được lý do để quở trách.”

Rồi Tôn giả Anurādha đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Anurādha bạch Thế Tôn:

– Ở đây, bạch Thế Tôn, con ở trong một cái chòi trong rừng không xa Thế Tôn bao nhiêu. Rồi bạch Thế Tôn, nhiều du sĩ ngoại đạo đi đến con; sau khi đến... nói với con như sau: “Này Hiền giả Anurādha, bậc Như Lai ấy là Tối thượng nhân, Tối thắng nhân, đã đạt được Tối thắng quả; bậc Như Lai ấy được xem là đã tuyên bố theo bốn trường hợp: ‘Như Lai tồn tại sau khi chết... Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết.’”

Được nghe nói vậy, bạch Thế Tôn, con nói với các du sĩ ngoại đạo ấy như sau: “Này chư Hiền... không không tồn tại sau khi chết.”

Được nghe nói vậy, các du sĩ ngoại đạo nói với con: “Hoặc là Tỷ-kheo này mới tu học... nhưng ngu dốt không có học tập.”

Rồi các du sĩ ngoại đạo ấy sau khi chỉ trích con là mới tu học... liền từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.

Rồi bạch Thế Tôn, sau khi các du sĩ ngoại đạo ấy ra đi không bao lâu, con liền suy nghĩ như sau: “Nếu các du sĩ ngoại đạo ấy hỏi ta thêm câu hỏi nữa, ta phải trả lời như thế nào để khi ta nói với các du sĩ ngoại đạo ấy, ta nói lên quan điểm của Thế Tôn; ta không xuyên tạc Thế Tôn với điều không thật; ta có thể trả lời tùy pháp, thuận với Chánh pháp; và ai là người đồng pháp, nói lên lời thuận với quan điểm của Ngài, sẽ không tìm được lý do để quở trách.”

– Ông nghĩ thế nào, này Anurādha, sắc là thường hay vô thường?

– Là vô thường, bạch Thế Tôn.

– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

– Là khổ, bạch Thế Tôn.

– Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: “Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi”?

– Thưa không, bạch Thế Tôn.

– Thọ... Tưởng... Hành... Thức là thường hay vô thường?

– Là vô thường, bạch Thế Tôn.

– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

– Là khổ, bạch Thế Tôn.

– Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”?

– Thưa không, bạch Thế Tôn.

– Do vậy... thấy vậy... “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa.” Vị ấy biết rõ như vậy.

Ông nghĩ thế nào, này Anurādha, ông có quán: “Sắc là Như Lai” không?

– Thưa không, bạch Thế Tôn.

– Ông nghĩ thế nào, này Anurādha, ông có quán: “Thọ... Tưởng... Hành... Thức là Như Lai” không?

– Thưa không, bạch Thế Tôn.

– Ông nghĩ thế nào, này Anurādha, ông có quán: “Như Lai ở trong sắc” không?

– Thưa không, bạch Thế Tôn.

– Ông có quán: “Như Lai ở ngoài sắc” không?

– Thưa không, bạch Thế Tôn.

– Ông có quán: “Như Lai ở trong thọ... ở ngoài thọ... ở trong tưởng... ở ngoài tưởng... ở trong hành... ở ngoài hành... ở trong thức” không?

– Thưa không, bạch Thế Tôn.

– Ông có quán: “Như Lai ở ngoài thức” không?

– Thưa không, bạch Thế Tôn.

– Ông nghĩ thế nào, này Anurādha, ông có quán: “Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là Như Lai” không?

– Thưa không, bạch Thế Tôn.

– Ông nghĩ thế nào, này Anurādha, ông có quán: “Cái phi sắc, phi thọ, phi tưởng, phi hành, phi thức là Như Lai” không?

– Thưa không, bạch Thế Tôn.

– Và ở đây, này Anurādha, ngay trong hiện tại không tìm được một Như Lai thường còn, thường trú, thời có hợp lý chăng khi ông trả lời: “Này chư Hiền, vị Như Lai nào là bậc Tối thượng nhân, Tối thắng nhân, đã đạt được quả Tối thắng; bậc Như Lai ấy được xem là đã tuyên bố ra ngoài bốn trường hợp như sau: ‘Như Lai tồn tại sau khi chết; Như Lai không tồn tại sau khi chết; Như Lai tồn tại và không tồn tại sau khi chết; Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết’”?

– Thưa không, bạch Thế Tôn.

– Lành thay, lành thay, này Anurādha! Trước kia và nay, này Anurādha, Ta chỉ tuyên bố khổ và đoạn diệt khổ.116

Tham chiếu:
114 Tham chiếu: Tạp. 雜 (T.02. 0099.106. 0032c02).
115 Kinh này được thuyết giảng chi tiết trong S. IV. 380-86. Tên gọi này rất nổi tiếng như được gọi cho thành phố Anurādhapura của Tích Lan trước đây.
116 Xem M. I. 140. Trong S. IV. 385 viết là abyākataṃ, nghĩa là không trả lời, không tuyên bố.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.