Viện Nghiên Cứu Phật Học

Phật giáo nguyên thuỷ/ Kinh Tạng Pali/ Kinh Tương Ưng Bộ// III. THIÊN UẨN/ 22. TƯƠNG ƯNG UẨN NĂM MƯƠI KINH GIỮA/ IX. PHẨM TRƯỞNG LÃO 

II. KINH TISSA (Tissasutta)106 (S. III. 106)

84. Nhân duyên ở Sāvatthi.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Tissa,107 cháu trai Thế Tôn, nói với một số đông Tỷ-kheo:

– Này chư Hiền, thân ta như bị say vì vị ngọt [nặng nề và bại hoại]. Ta không thấy rõ các phương hướng. Ta không phân biệt được các pháp. Thụy miên hôn trầm xâm chiếm tâm ta và tồn tại. Ta sống Phạm hạnh không còn thoải mái, và ta nghi ngờ đối với các pháp.

Rồi nhiều Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, Tôn giả Tissa, cháu trai Thế Tôn, có nói với một số đông Tỷ-kheo: “Này chư Hiền, thân ta như bị say vì vị ngọt108 [nặng nề và bại hoại]. Ta không thấy rõ các phương hướng. Ta không phân biệt được các pháp.109 Thụy miên hôn trầm xâm chiếm tâm ta và tồn tại. Ta sống Phạm hạnh không còn thoải mái, và ta nghi ngờ đối với các pháp.”

Rồi Thế Tôn gọi một Tỷ-kheo:

– Đến đây, này Tỷ-kheo, hãy nhân danh Ta, gọi Tỷ-kheo Tissa: “Hiền giả Tissa, bậc Đạo sư gọi Hiền giả.”

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, đi đến Tôn giả Tissa; sau khi đến, nói với Tôn giả Tissa:

– Hiền giả Tissa, bậc Đạo sư gọi Hiền giả.

– Thưa vâng, Hiền giả.

Tôn giả Tissa vâng đáp Tỷ-kheo ấy, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Tissa đang ngồi một bên:

– Có thật chăng, này Tissa, ông đã nói như sau cho một số đông Tỷ-kheo: “Này chư Hiền, thân ta như bị say vì vị ngọt... và ta nghi ngờ đối với các pháp”?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

– Ông nghĩ thế nào, này Tissa? Đối với người chưa ly tham, chưa ly dục, chưa ly ái, chưa ly khát, chưa ly nhiệt não, chưa ly khát ái đối với sắc; thời khi sắc ấy biến hoại, đổi khác, có khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không?

– Thưa có, bạch Thế Tôn.

– Lành thay, lành thay, này Tissa! Như vậy là phải, này Tissa! Như người chưa ly tham đối với sắc... đối với thọ... đối với tưởng... Như người chưa ly tham đối với hành; thời khi hành ấy biến hoại, đổi khác, có khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không?

– Thưa có, bạch Thế Tôn.

– Lành thay, lành thay, này Tissa! Như vậy là phải, này Tissa! Như người chưa ly tham đối với thức, chưa ly dục, chưa ly ái, chưa ly khát, chưa ly nhiệt não, chưa ly khát ái đối với thức; thời khi thức ấy biến hoại, đổi khác, có khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không?

– Thưa có, bạch Thế Tôn.

– Lành thay, lành thay, này Tissa! Như vậy là phải, này Tissa, đối với người chưa ly tham đối với thức.

Này Tissa, ông nghĩ thế nào, đối với người đã ly tham, đã ly dục, đã ly ái, đã ly khát, đã ly nhiệt não, đã ly khát ái đối với sắc; thời khi sắc ấy biến hoại, đổi khác, sầu, bi, khổ, ưu, não có khởi lên không?

– Thưa không, bạch Thế Tôn.

– Lành thay, lành thay, này Tissa! Như vậy là phải, này Tissa, đối với người đã ly tham đối với sắc. Đối với người đã ly tham, đã ly dục, đã ly ái, đã ly khát, đã ly nhiệt não, đã ly khát ái đối với thọ... đối với tưởng... đối với hành... Như người đã ly tham đối với thức, đã ly dục, đã ly ái, đã ly khát, đã ly nhiệt não, đã ly khát ái đối với thức; thời khi thức ấy biến hoại, đổi khác, sầu, bi, khổ, ưu, não có khởi lên không?

– Thưa không, bạch Thế Tôn.

– Lành thay, lành thay, này Tissa! Như vậy là phải, này Tissa, đối với người đã ly tham đối với thức.

Này Tissa, ông nghĩ thế nào, sắc là thường hay vô thường?

– Là vô thường, bạch Thế Tôn.

– Thọ... Tưởng... Hành... Thức là thường hay vô thường?

– Là vô thường, bạch Thế Tôn.

– Do vậy... thấy vậy... vị ấy biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa.”

Ví như, này Tissa, có hai người. Một người không giỏi về đường sá, một người giỏi về đường sá. Trong hai người ấy, người không giỏi về đường sá này hỏi người giỏi về đường sá kia về con đường. Người ấy trả lời: “Hãy đi, này bạn, đây là con đường; hãy đi theo con đường ấy trong một thời gian. Sau khi đi theo con đường ấy một thời gian, bạn sẽ thấy con đường ấy chia làm hai; ở đây, hãy bỏ con đường phía trái, và lấy con đường phía mặt, rồi đi theo con đường ấy trong một thời gian. Sau khi đi theo con đường ấy trong một thời gian, bạn sẽ thấy một khu rừng rậm; hãy đi theo con đường ấy trong một thời gian. Sau khi đi theo con đường ấy trong một thời gian, bạn sẽ thấy một đầm nước lớn; hãy đi theo con đường ấy trong một thời gian. Sau khi đi theo con đường ấy trong một thời gian, bạn sẽ thấy một vực nước sâu; hãy đi theo con đường ấy trong một thời gian. Sau khi đi theo con đường ấy trong một thời gian, bạn sẽ thấy một khoảnh đất bằng phẳng khả ái.”

Đây là ví dụ của Ta dùng, này Tissa, để nêu rõ ý nghĩa. Và ý nghĩa như sau:

Người không giỏi về đường sá, này Tissa, là ví cho kẻ phàm phu. Người giỏi về đường sá, này Tissa, là ví cho Như Lai, bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác.

Con đường chia làm hai, này Tissa, là ví cho trạng thái nghi hoặc. Con đường tay trái, này Tissa, là ví cho con đường tà đạo tám ngành, tức là tà tri kiến... tà định. Con đường tay mặt, này Tissa, là ví cho con đường Thánh đạo tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

Khu rừng rậm, này Tissa, là ví cho vô minh. Các đầm nước thấp, này Tissa, là ví cho các dục. Vực nước sâu, này Tissa, là ví cho phẫn nộ, ưu não. Khoảnh đất bằng phẳng khả ái, này Tissa, là ví cho Niết-bàn.

Hãy hoan hỷ, này Tissa! Hãy hoan hỷ, này Tissa! Ta giáo giới [cho ông], Ta giúp đỡ [cho ông], Ta giảng dạy [cho ông].110

Thế Tôn thuyết giảng như vậy, Tôn giả Tissa hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.

Tham chiếu:
106 Tham chiếu: Tạp. 雜 (T.02. 0099.271. 0071a04).
107 Về Tissa, xem S. II. 282; Pss. Breth. 43.
108 SA. II. 310: Madhurakajāto viyāti sañjātagarubhāvo viya akammañño (“Như bị say” nghĩa là như trở nên nặng nề và thụ động). Câu này chỉ cho khát vọng, được nói đến trong S. V. 153; D. I. 99; A. III. 69.
109 SA. II. 310: Dhamma chỉ cho pariyattidhamma, các pháp phải học thuộc lòng. Xem D. I. 99.
110 Anusāsaniya. Chú giải viết āmisadhammānuggahena, nghĩa là giúp đỡ vật chất và tinh thần.

 

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.