Viện Nghiên Cứu Phật Học

Phật giáo nguyên thuỷ/ Kinh Tạng Pali/ Kinh Tương Ưng Bộ// III. THIÊN UẨN/ 22.  TƯƠNG ƯNG UẨN NĂM MƯƠI KINH ĐẦU1/ I. PHẨM NAKULAPITU 

II. KINH DEVADAHA (Devadahasutta)8 (S. III. 5)

2. Như vầy tôi nghe.

Một thời, Thế Tôn ở giữa dân chúng Sakka, tại một thị trấn của dân chúng Sakka tên là Devadaha.

Lúc bấy giờ, một số đông Tỷ-kheo du hành ở phía Tây đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các vị Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

– Chúng con muốn xin Thế Tôn cho phép chúng con đi đến quốc độ phương Tây. Chúng con muốn trú ở quốc độ phương Tây.

– Này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo đã xin phép Sāriputta chưa?

– Bạch Thế Tôn, chúng con chưa xin phép Tôn giả Sāriputta.

– Này các Tỷ-kheo, vậy hãy xin phép Sāriputta. Sāriputta, này các Tỷ-kheo, là bậc hiền trí, là người đỡ đầu (anuggāhako) các vị Tỷ-kheo đồng Phạm hạnh.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Sāriputta đang ngồi dưới cây ba đậu,9 không xa Thế Tôn bao nhiêu.

Rồi các Tỷ-kheo ấy, sau khi hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài lui ra; rồi đi đến Tôn giả Sāriputta; sau khi đến, các vị ấy nói lên với Tôn giả Sāriputta những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy nói với Tôn giả Sāriputta:

– Chúng tôi muốn, thưa Hiền giả Sāriputta, đi đến quốc độ phương Tây. Chúng tôi muốn trú ở quốc độ phương Tây. Bậc Đạo sư đã cho phép chúng tôi.

– Này các Hiền giả, có những người đặt câu hỏi10 với vị Tỷ-kheo thường đi các quốc độ khác nhau: Các Sát-đế-lỵ hiền trí,11 các Bà-la-môn hiền trí,12 các gia chủ hiền trí,13 các Sa-môn hiền trí;14 này chư Hiền giả, các bậc hiền trí với óc ưa quán sát [sẽ hỏi]: “Bậc Đạo sư của Tôn giả nói gì, tuyên bố gì? Pháp có được chư Tôn giả khéo nghe, khéo nắm giữ, khéo tác ý, khéo thọ trì, khéo thâm nhập với trí tuệ không?” Để trả lời, các Tôn giả có thể lặp lại các ý kiến của Thế Tôn, không có xuyên tạc Thế Tôn với điều không thật; có thể trả lời tùy pháp, đúng với Chánh pháp và không để một vị đồng pháp nào nói lời đúng pháp,15 có thể có lý do để quở trách.16

– Chúng tôi có thể đi đến thật xa, thưa Tôn giả, để nghe tận mặt Tôn giả Sāriputta nói về ý nghĩa của lời nói này. Lành thay, nếu được Tôn giả Sāriputta giải thích ý nghĩa của lời nói này!

– Vậy này các Hiền giả, hãy lắng nghe và khéo tác ý, tôi sẽ nói.

– Thưa vâng, Tôn giả.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sāriputta. Tôn giả Sāriputta nói như sau:

– Này các Hiền giả, có những người đặt câu hỏi với vị Tỷ-kheo thường đi các quốc độ khác nhau: Các Sát-đế-lỵ hiền trí... các Sa-môn hiền trí; này các Hiền giả, các bậc Hiền trí với óc ưa quán sát [có thể hỏi]: “Bậc Đạo sư của Tôn giả nói gì, tuyên bố gì?” Được hỏi vậy, này các Hiền giả, các Hiền giả phải trả lời: “Này các Hiền giả, bậc Đạo sư của chúng tôi nói đến sự điều phục dục và tham.”

Được trả lời như vậy, này các Hiền giả, có thể có người hỏi thêm câu hỏi như sau: Các vị Sát-đế-lỵ hiền trí... các Sa-môn hiền trí; này các Hiền giả, các bậc Hiền trí với óc ưa quán sát [có thể hỏi]: “Đối với cái gì, bậc Đạo sư của các Tôn giả nói đến sự điều phục dục và tham?” Được hỏi như vậy, này các Hiền giả, các Hiền giả phải trả lời như sau: “Đối với sắc, này các Hiền giả, bậc Đạo sư của chúng tôi nói về sự điều phục dục và tham. Đối với thọ... Đối với tưởng... Đối với hành... Đối với thức, này các Hiền giả, bậc Đạo sư của chúng tôi nói về sự điều phục dục và tham.”

Được trả lời như vậy, này các Hiền giả, có thể có người hỏi thêm như sau: Các Sát-đế-lỵ hiền trí... các Sa-môn hiền trí; này các Hiền giả, các bậc Hiền trí với óc ưa quán sát [có thể hỏi]: “Nhưng thấy sự nguy hiểm gì, bậc Đạo sư của các Tôn giả nói đến sự điều phục dục và tham đối với sắc... đối với thọ... đối với tưởng... đối với hành... bậc Đạo sư của các Tôn giả nói đến sự điều phục dục và tham đối với thức?” Được hỏi như vậy, này các Hiền giả, các ông cần phải trả lời như sau: “Này các Hiền giả, đối với sắc, ai chưa viễn ly tham, chưa viễn ly dục, chưa viễn ly ái, chưa viễn ly khát, chưa viễn ly nhiệt não, chưa viễn ly khát ái; khi sắc ấy biến hoại, đổi khác, sẽ khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não. Đối với thọ... Đối với tưởng... Đối với hành... Đối với thức, ai chưa viễn ly tham, chưa viễn ly dục, chưa viễn ly ái, chưa viễn ly khát, chưa viễn ly nhiệt não, chưa viễn ly khát ái; khi thức ấy biến hoại, đổi khác, sẽ khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não. Này các Hiền giả, do thấy sự nguy hiểm này đối với sắc mà bậc Đạo sư của chúng tôi nói đến sự điều phục dục và tham đối với sắc... đối với thọ... đối với tưởng... đối với hành... bậc Đạo sư của chúng tôi nói đến sự điều phục dục và tham đối với thức.”

Được trả lời như vậy, này các Hiền giả, có thể có người hỏi thêm như sau: Các Sát-đế-lỵ hiền trí... các Sa-môn hiền trí; này các Hiền giả, các bậc Hiền trí với óc ưa quán sát [có thể hỏi]: “Nhưng thấy sự lợi ích gì, bậc Đạo sư của các Tôn giả nói đến sự điều phục dục và tham đối với sắc... đối với thọ... đối với tưởng... đối với hành... bậc Đạo sư của các Tôn giả nói đến sự điều phục dục và tham đối với thức?” Được hỏi như vậy, này các Hiền giả, các Hiền giả phải trả lời như sau: “Này các Hiền giả, đối với sắc, ai đã viễn ly tham, đã viễn ly dục, đã viễn ly ái, đã viễn ly khát, đã viễn ly nhiệt não, đã viễn ly khát ái; khi sắc ấy biến hoại, đổi khác, sẽ không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não. Đối với thọ... đối với tưởng... đối với hành... đối với thức, này các Hiền giả, ai đã viễn ly tham, đã viễn ly dục, đã viễn ly ái, đã viễn ly khát, đã viễn ly nhiệt não, đã viễn ly khát ái; khi thức ấy biến hoại, đổi khác, sẽ không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não. Do thấy sự lợi ích này, này các Hiền giả, bậc Đạo sư của chúng tôi nói đến sự điều phục dục và tham đối với sắc... đối với thọ... đối với tưởng... đối với hành... bậc Đạo sư của chúng tôi nói đến sự điều phục dục và tham đối với thức.”

Và này các Hiền giả, đạt được và an trú trong các bất thiện pháp, và ngay trong đời sống hiện tại, sống được an lạc, không bị chướng ngại, không bị ưu não, không bị nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ được sanh thiện thú. Đây không phải là sự đoạn tận các bất thiện pháp, được Thế Tôn tán thán.

Nhưng này các Hiền giả, vì rằng đạt được và an trú trong các bất thiện pháp, và ngay trong đời sống hiện tại, sống bị đau khổ, bị chướng ngại, bị ưu não, bị nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ phải sanh ác thú. Do vậy, đây là sự đoạn tận các bất thiện pháp, được Thế Tôn tán thán.

Và này các Hiền giả, đạt được và an trú trong các thiện pháp, và ngay trong đời sống hiện tại, sống đau khổ, bị chướng ngại, bị ưu não, bị nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ phải sanh ác thú. Đây không phải là sự thành tựu các thiện pháp, được Thế Tôn tán thán.

Nhưng này các Hiền giả, vì rằng đạt được và an trú trong các thiện pháp, và ngay trong đời sống hiện tại, sống được an lạc, không bị chướng ngại, không bị ưu não, không bị nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ được sanh thiện thú. Do vậy, đây là sự thành tựu các thiện pháp, được Thế Tôn tán thán.

Tôn giả Sāriputta thuyết như vậy, các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Tôn giả Sāriputta nói.

Tham chiếu:
1 Trong bản tiếng Anh của PTS, Tương ưng Uẩn được trình bày theo 3 phần: The First Fifty Suttas (50 kinh đầu), The Middle Fifty (50 kinh giữa), The Last Fifty (50 kinh cuối).
8 Devadaha. Xem J. I. 52. Quê hương của mẫu thân đức Phật. Tham chiếu: Tạp. 雜 (T.02. 0099.108. 0033b28); Tăng. 增 (T.02. 0125.41.4. 0745b26).
9 Eḷagalāgumba: Một loại cây lớn lên nhờ tưới nước, tên tiếng Anh là cây Cassia Tora.
10 Pucchitār. Xem Sn. 140 có trường hợp tương tự.
11 Chú giải: Như Vua Bimbisāra
12 Chú giải: Như Caṅkī và Tārukkha.
13 Như Citta và Sudatta. Xem A. I. 24-6.
14 Như Sabhiyasutta. Xem S. II. 153; IV. 401; Sn. 90-102.
15 Chú giải viết là vādānupāto, nghĩa là đi theo con đường của bậc Đạo sư.
16 Xem S. II. 33, có một đoạn tương tự.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.