Viện Nghiên Cứu Phật Học

Phật giáo nguyên thuỷ/ Kinh Tạng Pali/ Kinh Tương Ưng Bộ// II. THIÊN NHÂN DUYÊN/19. TƯƠNG ƯNG LAKKHAṆA/I. PHẨM THỨ NHẤT 

I. KINH BỘ XƯƠNG (Aṭṭhisutta)1 (S. II. 254)

202. Như vầy tôi nghe.

Một thời, Thế Tôn trú ở Rājagaha (Vương Xá), Veḷuvana (Trúc Lâm), chỗ nuôi dưỡng các con sóc.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Lakkhaṇa2 và Tôn giả Mahāmoggallāna trú ở Gijjhakūṭa (núi Linh Thứu).

Rồi Tôn giả Mahāmoggallāna, vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi đến Tôn giả Lakkhaṇa; sau khi đến, nói với Tôn giả Lakkhaṇa:

– Chúng ta hãy cùng đi, này Hiền giả Lakkhaṇa. Chúng ta hãy đi vào Rājagaha để khất thực.

– Thưa vâng, Hiền giả.

Tôn giả Lakkhaṇa vâng đáp Tôn giả Mahāmoggallāna.

Rồi Tôn giả Mahāmoggallāna khi đi từ Gijjhakūṭa bước xuống, đi ngang qua một chỗ, liền mỉm cười.

Rồi Tôn giả Lakkhaṇa nói với Tôn giả Mahāmoggallāna:

– Này Hiền giả Moggallāna, do nhân gì, do duyên gì, Hiền giả lại mỉm cười?

– Này Hiền giả Lakkhaṇa, không phải thời là câu hỏi ấy. Trước mặt Thế Tôn, hãy hỏi tôi câu hỏi ấy.

Rồi Tôn giả Lakkhaṇa và Tôn giả Mahāmoggallāna sau khi đi khất thực ở Rājagaha xong, sau bữa ăn, trên con đường trở về, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Lakkhaṇa nói với Tôn giả Mahāmoggallāna:

– Ở đây, Tôn giả Mahāmoggallāna khi từ Gijjhakūṭa bước xuống, đi ngang qua một chỗ, liền mỉm cười. Này Hiền giả Moggallāna, do nhân gì, do duyên gì, Hiền giả lại mỉm cười?

– Ở đây, này Hiền giả, khi tôi từ Gijjhakūṭa bước xuống, tôi thấy một bộ xương (aṭṭhikasaṅkhalika) đang đi giữa hư không. Các con kên kên, các con quạ, các con chim ưng đuổi theo nó, cắn mổ xương sườn nó, cắn xé nó, và nó kêu lên những tiếng kêu đau đớn.

Này Hiền giả, tôi suy nghĩ như sau: “Thật kỳ lạ thay! Thật kỳ lạ thay! Một kẻ có tên như vậy lại trở thành một chúng sanh như vậy. Một kẻ có tên như vậy lại trở thành một dạ-xoa như vậy. Một kẻ có tên như vậy lại trở thành một tự ngã như vậy.”

Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:

– Sống với như thực nhãn, này các Tỷ-kheo, là các đệ tử. Thật sống với như thực trí, này các Tỷ-kheo, là các đệ tử. Vì rằng một đệ tử sẽ biết, hay sẽ thấy, hay sẽ chứng thực như vậy.

Xưa kia, này các Tỷ-kheo, Ta đã thấy chúng sanh ấy nhưng Ta không có nói. Nếu Ta có nói, các người khác cũng không tin Ta. Và những ai không tin Ta, những người ấy sẽ bị bất hạnh, đau khổ lâu dài.

Chúng sanh ấy, này các Tỷ-kheo, là một đồ tể giết trâu bò (goghātaka) ở Rājagaha này. Do nghiệp của người đó thuần thục, sau khi bị nung nấu trong địa ngục nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm và với quả thuần thục còn lại, người đó cảm thọ một tự ngã như vậy.

Tham chiếu:
1 Tham chiếu: Tạp. 雜 (T.02. 0099.508. 0135a08).
2 Đây là một Thượng tọa trong 1.000 vị bện tóc được đức Phật tế độ khi 3 anh em Kassapa nghe đức Phật thuyết pháp.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.