Tam tạng Thánh điển PGVN 03 » Tam tạng Thượng Tọa bộ 03 »
Kinh Tương Ưng Bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
Phật giáo nguyên thuỷ/ Kinh Tạng Pali/ Kinh Tương Ưng Bộ// I. THIÊN CÓ KỆ/ 9. TƯƠNG ƯNG RỪNG
III. KINH KASSAPAGOTTA (Kassapagottasutta)4 (S. I. 198)
223. Một thời, Tôn giả Kassapagotta trú giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng.
Lúc bấy giờ, Tôn giả Kassapagotta, trong khi nghỉ ban ngày, khuyên dạy một người thợ săn.5
Một vị thiên trú ở khu rừng ấy, thương xót Tỷ-kheo ấy, muốn hạnh phúc, muốn cảnh giác, liền đi đến Tỷ-kheo ấy.
Sau khi đến, vị ấy nói lên những bài kệ với Tôn giả Kassapagotta:
Trên sườn núi cheo leo,
Người thợ săn đang trèo,
Là hạng người thiếu trí,
Không sáng suốt, ngu si.
Tỷ-kheo có khuyên dạy,
Thật uổng phí thời gian,
Ta nghĩ làm như vậy,
Tự tỏ thiếu trí tuệ.
Có nghe cũng không hiểu,
Có nhìn cũng không thấy,
Dầu cho có thuyết pháp,
Kẻ ngu không thấy đích.
Tôn giả Kassapa,
Nếu ông có cầm tay
Cho đến mười bó đuốc,
Người ấy không thấy được,
Các sắc pháp đối diện,
Vì người ấy không mắt.
Tôn giả Kassapagotta được vị thiên ấy cảnh giác, tâm hết sức xúc động.
Tham chiếu:
4 Bản tiếng Anh của PTS: Kassapa of the Kassapas (or The Trapper), nghĩa là Kassapa thuộc dòng họ Kassapa (hay Thợ săn).
5 Cheta: Người thợ săn đặt bẫy. Người thợ săn đang đuổi con nai thời Kassapa can thiệp, phản đối lối sống độc ác này.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.