Tam tạng Thánh điển PGVN 03 » Tam tạng Thượng Tọa bộ 03 »
Kinh Tương Ưng Bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
Phật giáo nguyên thuỷ/ Kinh Tạng Pali/ Kinh Tương Ưng Bộ// I. THIÊN CÓ KỆ/ 9. TƯƠNG ƯNG RỪNG
I. KINH VIỄN LY (Vivekasutta) (S. I. 197)
221. Như vầy tôi nghe.
Một thời, một Tỷ-kheo trú giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng.
Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo ấy, trong lúc đi nghỉ ban ngày, khởi lên những tư tưởng ác, bất thiện, liên hệ đến gia đình.
Rồi một vị thiên trú ở khu rừng ấy, thương xót Tỷ-kheo ấy, muốn hạnh phúc, muốn cảnh giác, liền đi đến Tỷ-kheo ấy.
Sau khi đến, vị thiên ấy nói lên những bài kệ với vị Tỷ-kheo này:
Ông ước muốn viễn ly,
Đã sống trong rừng núi,
Nay tâm ông vọng động,
Rong ruổi theo ngoại giới.
Ông đối mặt với ông,
Hãy chế ngự lòng dục.
Nhờ vậy, ông hạnh phúc,
Thoát ly được tham ái.
Hãy từ bỏ bất mãn,
Sống an trú chánh niệm,
Ông thành người hiền thiện,
Được chúng tôi tán thán.1
Trừ bụi trần2 địa ngục,
Thật rất khó vượt qua,
Ông chớ vận chuyển theo,
Các bụi trần dục vọng.
Như chim, thân dính bụi,
Rung thân khiến bụi rơi,
Cũng vậy vị Tỷ-kheo,
Tinh cần, trú chánh niệm,
Vùng vẫy khiến rơi rớt,
Những bụi đời dính thân.
Tỷ-kheo ấy được vị thiên cảnh giác, tâm hết sức xúc động.
Tham chiếu:
1 Chú giải viết sārayāmase, được hiểu theo nghĩa “đối với vị có chánh niệm và người có trí, chúng ta tùy hỷ”; hoặc nghĩa “giới luật của người hiền thiện, thời chúng ta tán thành”.
2 Pātāla. Xem S. I. 32 (kinh 44 ở trước); S. I. 124 (kinh 161 ở trước). Raja: Bụi, sự nhơ bẩn.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.