Viện Nghiên Cứu Phật Học

Phật giáo nguyên thuỷ/ Kinh Tạng Pali/ Kinh Tương Ưng Bộ// I. THIÊN CÓ KỆ/ 7. TƯƠNG ƯNG BÀ-LA-MÔN/ I. PHẨM A-LA-HÁN

IX. KINH SUNDARIKA (Sundarikasutta) (S. I. 167)
195. Một thời, Thế Tôn ở giữa dân tộc Kosala, trên bờ sông Sundarikā.

Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja tế lửa trên bờ sông Sundarikā, làm lễ cúng dường lửa.

Rồi Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja sau khi tế lửa, làm lễ cúng dường lửa xong, từ chỗ ngồi đứng dậy, nhìn xung quanh tất cả bốn phương và nghĩ: “Ai có thể hưởng thọ món ăn cúng tế còn lại này?”

Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja thấy Thế Tôn đang ngồi dưới gốc cây, đầu được bao trùm, thấy vậy, tay trái cầm món ăn cúng tế còn lại, tay phải cầm bình nước4 đi đến Thế Tôn.

Và Thế Tôn nghe tiếng chân của Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja liền tháo đồ trùm ở đầu.

Và Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja nghĩ: “Đầu vị này trọc, vị này là người trọc đầu”, nghĩ vậy, muốn trở lui.

Rồi Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja lại suy nghĩ: “Trọc đầu ở đây, một số Bà-la-môn cũng như vậy. Vậy ta hãy đến và hỏi vấn đề thọ sanh.”

Rồi Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói với Thế Tôn:

– Thọ sanh là gì, Tôn giả?

[Thế Tôn:]

Chớ hỏi về thọ sanh, 
Hãy hỏi về sở hành. 
Tùy theo mọi thứ củi, 
Ngọn lửa được sanh khởi. 
Dầu thuộc nhà hạ tiện, 
Bậc Ẩn sĩ tinh cần,5
Được xem như thượng sanh.6 
Biết tàm quý, trừ ác,
Điều thuận bởi chân lý, 
Thuần thục trong hành trì, 
Thông đạt các Thánh kinh,7 
Phạm hạnh được viên thành.
Tế vật đã đem lại, 
Hãy cầu khẩn vị ấy, 
Lễ tế làm đúng thời, 
Vị ấy xứng cúng dường.

[Sundarika:]

Vật cúng này của con, 
Thật sự khéo cúng dường, 
Nay con đã thấy được, 
Bậc sáng suốt như Ngài. 
Con không thấy một ai, 
Có thể sánh được Ngài, 
Không có người nào khác, 
Thọ hưởng vật cúng này. 
Tôn giả Gotama,
Hãy thọ hưởng vật cúng. 
Ngài thật Bà-la-môn, 
Là bậc đáng tôn trọng.

[Thế Tôn:]

Ta không có hưởng thọ, 
Vì tụng hát kệ chú,
Thường pháp không phải vậy, 
Đối vị có tri kiến.
Chư Phật đã loại bỏ,
Tụng hát các kệ chú, 
Chân thật niệm Chánh pháp, 
Sở hành là như vậy.
Bậc Đại sĩ vẹn toàn, 
Cúng dường phải khác biệt.
Đoạn tận các lậu hoặc, 
Trạo hối được lắng dịu, 
Với những bậc như vậy, 
Cơm nước phải cúng dường, 
Thật chính là phước điền, 
Cho những ai cầu phước.

– Vậy thưa Tôn giả Gotama, con phải cho ai vật cúng còn lại này?

– Này Bà-la-môn, trong toàn thế giới chư Thiên, Ma giới, Phạm thiên giới, trong chúng Sa-môn và Bà-la-môn, trong thế giới chư thiên và loài người, Ta không thấy một ai ăn vật cúng còn lại này có thể tiêu hóa được, ngoại trừ Như Lai hay đệ tử Như Lai. Này Bà-la-môn, vậy này Bà-la-môn, hãy quăng vật cúng còn lại này tại chỗ không có cỏ xanh, hay nhận chìm xuống nước, nơi không có loài hữu tình.

Rồi Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja nhận chìm vật cúng còn lại ấy vào trong nước, nơi không có loài hữu tình.

Vật cúng ấy khi được quăng vào trong nước liền xì lên, sôi lên, phun hơi và phun khói lên. Ví như lưỡi cày đốt nóng cả ngày, khi bỏ vào trong nước, bèn xì lên, sôi lên, phun hơi và phun khói lên; cũng vậy, vật cúng còn lại ấy khi được quăng vào trong nước bèn xì lên, sôi lên, phun hơi và phun khói lên.

Rồi Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja hoảng hốt, lông tóc dựng ngược, đi đến Thế Tôn; sau khi đến liền đứng một bên. Thế Tôn nói lên bài kệ cho Bà-lamôn Sundarika Bhāradvāja đang đứng một bên:

Này Bà-la-môn kia, 
Chớ có nghĩ gì tịnh! 
Sự sắp đặt củi lửa, 
Như vậy chỉ bề ngoài.
Bậc Thiện nhân dạy rằng, 
Người ấy không thanh tịnh, 
Với những ai chỉ muốn 
Thanh tịnh mặt bên ngoài.
Này Bà-la-môn kia, 
Ta từ bỏ củi lửa, 
Ta chỉ nhen nhúm lên, 
Ngọn lửa từ nội tâm,
Ngọn lửa thường hằng cháy, 
Thường nồng cháy nhiệt tình.
Ta là bậc La-hán, 
Ta sống đời Phạm hạnh. 

Này Bà-la-môn kia, 
Người mang ách kiêu mạn, 
Phẫn nộ là khói hương, 
Vọng ngôn là tro tàn, 
Lưỡi là chiếc muỗng tế, 
Tâm là chỗ tế tự,
Tự ngã là ngọn lửa.

Còn người khéo điều phục, 
Chánh pháp là ao hồ, 
Giới là bến nước tắm, 
Không cấu uế, trong sạch, 
Được thiện nhân tán thán; 
Là chỗ bậc có trí, 
Thường tắm, trừ uế tạp. 
Khi thân thể trong sạch, 
Họ qua bờ bên kia.

Chánh pháp là chân lý,8
Tự chế là Phạm hạnh, 
Chính con đường Trung đạo,9
Giúp đạt tối thắng vị, 
Đảnh lễ bậc Trực Tâm, 
Ta gọi Tùy pháp hành.

Khi được nghe nói vậy, Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja bạch Thế Tôn: 

– Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!... 

Và Tôn giả Bhāradvāja trở thành một vị A-la-hán nữa.

Tham chiếu:
4 Kamaṇḍalu: Bình nước có vòi dài của người tu sĩ để uống nước mà không chạm vào môi.
5 Dhitimā, được giải thích là tinh tấn.
6 Ājānīya, áp dụng cho voi, bò hay ngựa được huấn luyện thuần thục.
7 Vedantagū: Người thông thạo các tập Vệ-đà một cách rốt ráo.
8 Trong trường hợp này, “chân lý” có nghĩa là lời nói chân thật.
9 Theo Ngài Buddhaghosa, Trung đạo không chỉ có nghĩa là con đường tránh xa dục lạc và khổ hạnh, mà còn chỉ cho con đường tránh xa thường kiến và đoạn kiến. Xem DB. I. 27, 46.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.