Tam tạng Thánh điển PGVN 03 » Tam tạng Thượng Tọa bộ 03 »
Kinh Tương Ưng Bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
Phật giáo nguyên thuỷ/ Kinh Tạng Pali/ Kinh Tương Ưng Bộ// I. THIÊN CÓ KỆ/ 5. TƯƠNG ƯNG TỶ-KHEO-NI
X. KINH VAJIRĀ (Vajirāsutta) (S. I. 134)
171. Nhân duyên tại Sāvatthi. Tỷ-kheo-ni Vajirā, vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi vào Sāvatthi để khất thực. Khất thực xong, sau bữa ăn, trên đường trở về, Tỷ-kheo-ni Vajirā đi đến rừng Andha để nghỉ ban ngày; sau khi đi sâu vào rừng Andha, đến và ngồi dưới một gốc cây để nghỉ ban ngày.
Rồi Ác ma muốn làm Tỷ-kheo-ni Vajirā run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến nàng từ bỏ thiền định, liền đi đến, nói lên bài kệ với Tỷ- kheo-ni Vajirā:
Do ai, hữu tình này,
Được sanh, được tạo tác?
Người tạo hữu tình này,
Hiện nay ở tại đâu?
Từ đâu hữu tình sanh?
Đi đâu hữu tình diệt?
Rồi Tỷ-kheo-ni Vajirā suy nghĩ: “Ai đã nói lên bài kệ này? Người hay không phải người?”
Rồi Tỷ-kheo-ni Vajirā lại suy nghĩ: “Chính là Ác ma muốn làm ta run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến ta từ bỏ thiền định nên đã nói lên bài kệ này.”
Rồi Tỷ-kheo-ni Vajirā biết được: “Đây là Ác ma”, liền trả lời Ác ma với bài kệ:
Sao ông lại nói hoài,
Đến hai chữ chúng sanh?
Phải chăng, này Ác ma,
Ông rơi vào tà kiến?
Đây quy tụ các hành,
Chúng sanh được hình thành.
Như bộ phận quy tụ,
Tên xe được nói lên.
Cũng vậy, uẩn quy tụ,
Thông tục gọi chúng sanh.
Chỉ có khổ được sanh,
Khổ tồn tại, khổ diệt,
Ngoài khổ, không gì sanh,
Ngoài khổ, không gì diệt.
Rồi Ác ma biết được: “Tỷ-kheo-ni Vajirā đã biết ta”, buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.