Tam tạng Thánh điển PGVN 03 » Tam tạng Thượng Tọa bộ 03 »
Kinh Tương Ưng Bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
Phật giáo nguyên thuỷ/ Kinh Tạng Pali/ Kinh Tương Ưng Bộ// I. THIÊN CÓ KỆ/ 3. TƯƠNG ƯNG KOSALA/ III. PHẨM THỨ BA
IV. KINH CUNG THUẬT (Issattasutta) (S. I. 98)
135. Nhân duyên tại Sāvatthi. Ngồi xuống một bên, Vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn:32
– Chỗ nào, bạch Thế Tôn, bố thí cần phải đem cho?
– Thưa Đại vương, tại chỗ nào mà tâm được hoan hỷ.
– Bạch Thế Tôn, chỗ nào cho được quả lớn?
– Thưa Đại vương, câu: “Chỗ nào bố thí cần phải đem cho”, khác với câu: “Chỗ nào cho được quả lớn.” Thưa Đại vương, cho người trì giới được quả báo lớn. Cho người không giữ giới không được như vậy. Về vấn đề này, thưa Đại vương, Ta sẽ hỏi Đại vương, Đại vương thấy thích hợp như thế nào, hãy trả lời câu hỏi ấy như vậy.
Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào, ở đây, Đại vương đang lâm chiến, và cuộc giao tranh đang bày binh bố trận. Rồi một thanh niên Sát-đế-lỵ đến, không có học tập, không có huấn luyện, không có thực tập, không có phục vụ, rụt rè, sợ hãi, run sợ hay bỏ chạy. Đại vương có giữ lại người ấy không, và một người như vậy có lợi ích gì cho Đại vương không?
– Bạch Thế Tôn, con không giữ lại người ấy và một người như vậy không có lợi ích gì cho con cả.
– Rồi một thanh niên Bà-la-môn, không có học tập... Rồi một thanh niên Vessa (thương gia) đến... Rồi một thanh niên Sudda (Thủ-đà) đến, không có học tập... và một người như vậy không có lợi ích gì cho con cả.
– Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào, ở đây, Đại vương đang lâm chiến, và cuộc giao tranh đang bày binh bố trận. Rồi một thanh niên Sát-đế-lỵ đến, có học tập, có huấn luyện, có thực tập, có phục vụ, không rụt rè, không sợ hãi, không run sợ, không bỏ chạy. Đại vương có giữ lại người ấy không, và một người như vậy có lợi ích gì cho Đại vương không?
– Bạch Thế Tôn, con giữ lại người ấy. Và một người như vậy có lợi ích cho con.
– Rồi một thanh niên Bà-la-môn đến, có học tập... Rồi một thanh niên Vessa đến... Rồi một thanh niên Sudda đến... và một người như vậy có ích lợi gì cho Đại vương không?
– Bạch Thế Tôn, con ủng hộ người ấy và một người như vậy có lợi ích cho con.
– Cũng vậy, thưa Đại vương, dầu cho một người có xuất gia từ một gia đình nào, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, vị ấy đoạn trừ năm chi và hội đủ năm chi. Bố thí cho một người như vậy có quả báo lớn.
Thế nào là năm chi được đoạn trừ? Tham dục được đoạn trừ, sân được đoạn trừ, hôn trầm thụy miên được đoạn trừ, trạo hối được đoạn trừ, nghi được đoạn trừ. Năm chi này được đoạn trừ.
Thế nào là năm chi được hội đủ? Vô học Giới uẩn được hội đủ, Vô học Định uẩn được hội đủ, Vô học Tuệ uẩn được hội đủ, Vô học Giải thoát uẩn được hội đủ, Vô học Giải thoát tri kiến uẩn được hội đủ. Năm chi này được hội đủ.
Chính một người như vậy, năm chi được đoạn trừ, năm chi được hội đủ. Bố thí cho người như vậy được quả báo lớn.
Thế Tôn nói như vậy... rồi bậc Đạo sư lại nói thêm:
Vị vua đang lâm chiến,
Sẽ giữ lại thanh niên,
Cung thuật được thiện xảo,
Dõng mãnh đầy khí lực.
Nhà vua không tuyển chọn,
Theo tiêu chuẩn thọ sanh.
Cũng vậy, người có trí,
Kính lễ bậc hạ sanh,
Bậc này sống Thánh hạnh,
Nhẫn nhục và hiền hòa.33
Hãy làm cốc thoải mái,
Dựng nhà cho Đa văn,
Rừng khô,34 làm bể nước,
Hiểm trở, mở đường đi.
Với tâm tư thanh tịnh,
Hãy cho kẻ trực tâm,
Cho đồ ăn, đồ uống,
Cho vải mặc, trú xá.
Như mây giông gầm thét,
Chớp sáng trăm đầu mây,
Nước mưa ào ào xuống,
Tràn đầy đất thấp cao.
Cũng vậy, bậc thiện tín,
Đa văn, dọn đồ ăn,
Thỏa mãn kẻ khất sĩ.
Kẻ trí tâm hoan hỷ,
Phân phát vật ăn uống,
Nói: “Cho, hãy đem cho!”
Như vậy la, gầm, thét,
Mưa móc như thần mưa.
Các công đức to lớn,
Do bố thí mang lại,
Đem mưa ân, mưa móc,
Trên những người bố thí.
Tham chiếu:
32 Chú giải giải thích cuộc hội đàm này giữa công chúng với sự hiện diện của rất nhiều ngoại đạo sư. Những vị này cho rằng họ vượt trội hơn tất cả, danh tiếng của họ còn lớn hơn danh tiếng của đức Phật. Họ khuyến khích mọi người hãy cúng dường cho họ và các đệ tử của họ. Vua Pasenadi đã thỉnh đức Phật đến để làm rõ.
33 SA. I. 166: Khantisoraccanti ettha khantīti adhivāsanakhanti, soraccanti arahattaṃ. Ngài Buddhaghosa giải thích khantisoracca là “Nhẫn nhục và hiền hòa”. Trong trường hợp này, “nhẫn nhục” có nghĩa là nhẫn nại, chịu đựng và “hiền hòa” là tâm hiền thiện của bậc Thánh, bậc A-la-hán. Xem D. III. 213; A. I. 94.
34 Papañca vivane. SA. I. 166: Vivaneti araññaṭṭhāne, nirudake araññe, được giải thích là khu rừng không có nước.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.