Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 05  »  Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 05»

Kinh Tiểu Bộ Quyển 1
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU dịch
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN

Mục Lục

Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tiểu Bộ Quyển 1/ CHUYỆN NGẠ QUỶ/ DẪN LUẬN CHUYỆN NGẠ QUỶ /IV. PHẨM LỚN

§38. CHUYỆN NGẠ QUỶ NANDAKA

(Nandakapetavatthu)15 (Pv. 57; PvA. 244)

Khoảng hai trăm năm sau khi bậc Ðạo sư diệt độ, có Vua Piṅgala ngự trị Suraṭṭha (vương quốc An Lạc). Vị tướng cầm đầu quân đội nhà vua là Nandaka, đầy tà kiến.

Chư vị kết tập kinh điển kể lại chuyện những người này:

658.
Tương truyền Lãnh chúa Piṅgala,
Ngự trị thần dân Suraṭṭha,
Khi đã đi chầu triều Khổng Tước,
Trên đường vua trở lại quê nhà.
659.
Trong cơn nóng bức giữa ban ngày,
Vua đến một nơi có vũng lầy,
Nhìn thấy một con đường khả ái,
Là nơi trú ngụ quỷ ma đầy.
660.
Vua ấy bảo ngay vị quản xa:
“Con đường này khả ái cho ta,
An toàn yên tĩnh, đầy may mắn,
Theo lối này đi, hỡi quản xa.”
661.
Vua xứ Suraṭṭha từ chốn đây,
Tiến lên cùng với đội quân ngài,
Bốn đoàn hộ tống đều đi trước,
Hướng dẫn thần dân xứ sở này.
662.
Với dáng lo âu một lão gia,
Nói như vầy với chúa Suraṭṭha:
“Chúng ta đi lạc đường rồi đó,
Thật đáng hãi kinh rợn tóc da.
663.
Mặt tiền ta thấy một con đường,
Song phía sau không thấy hướng phương,
Tất cả chúng ta đang lạc bước,
Ðến gần quân của Diêm-ma vương.
664.
Có một mùi ma quỷ bốc ra,
Tiếng ồn khủng khiếp được nghe qua.”
Suraṭṭha lãnh chúa liền kinh hoảng,
Vội nói như vầy với quản xa:
665.
“Nay chúng ta đang lạc bước đường,
Thật là lạnh gáy, đáng kinh hoàng,
Mặt tiền thấy một con đường nọ,
Song phía sau không thấy hướng phương.
666.
Nay chúng ta đang lạc bước đường,
Ðến gần quân của Diêm-ma vương,
Một mùi ma quỷ đang xông khắp,
Khủng khiếp tai nghe một tiếng ồn!”
667.
Nhà vua đang ngự ở lưng voi,
Ngơ ngác nhìn quanh bốn hướng trời,
Chợt thấy một cây đa rợp bóng,
Sum suê cành lá thật xanh tươi.
668.
Cây có màu xanh xám tựa mây,
Ðỉnh cây có sắc của sương dày,
Nhà vua hỏi vị quan điều ngự:
“Ta thấy vật chi lớn thế này,
Như đám mây xanh màu xám ngắt,
Ðỉnh cây có sắc tựa sương bay?”
[Quan điều ngự:]
669.
Chúa công, đó chính một cây đa,
Cành lá sum suê tỏa bóng ra,
Cây có màu mây xanh xám ngắt,
Ðỉnh cây có sắc tựa sương sa.
670.
Suraṭṭha chúa tể lại lên đường,
Về hướng cây cao lớn dị thường,
Sắc tựa đám mây xanh xám ngắt,
Ðỉnh cây lại có một màu sương.
671.
Nhà vua bước xuống tự lưng voi,
Ði đến gần cây nọ một hồi,
Cùng với quần thần và cận vệ,
Ở ngay gốc rễ, chúa công ngồi.
672.
Vua thấy bánh và hủ nước trong,
Một người có dáng điệu thiên thần,
Ðiểm tô đủ loại đồ trang sức,
Ði đến ngỏ lời với chúa công:
673.
“Chúa công! Hân hạnh được chào mừng,
Chư vị đến đây thế cũng gần,
Chúa thượng, xin mời ngài uống nước,
Và dùng bánh hỡi vị anh hùng!”
674.
Nhà vua cùng với các quần thần,
Cận vệ bên mình uống nước trong,
Ăn bánh rồi vua cất tiếng hỏi:
“Xin cho biết có phải thiên nhân,
Thát-bà hay chính là thiên chủ,
Purindada ấy phải chăng?
Không biết ngài nên ta muốn hỏi,
Làm sao ta biết được tôn ông?”
[Quỷ thần:]
675.
Tôi đây không phải một thiên nhân,
Chẳng phải Sakka, chẳng nhạc thần,
Tôi chính quỷ nhân, tâu Chúa thượng,
Từ Suraṭṭha đến ở ma cung.
[Quân vương:]
676.
Ngày trước ngài công đức thế nào,
Ở Suraṭṭha xử thế ra sao,
Ngài theo Phạm hạnh nào từ trước,
Nay hưởng cảnh vinh hiển biết bao?
[Quỷ thần:]
677.
Xin hãy lắng nghe, hỡi Chúa công!
Là người khai quốc, vị anh hùng,
Quốc sư tế lễ nghe tôi nói,
Cùng các quân nhân, các đại thần!
678.
Chúa công, tôi đến tự Suraṭṭha,
Thuở trước tính tình thật xấu xa,
Tà kiến mang đầy cùng ác ý,
Xan tham, hay mạ lỵ người ta.
679.
“Tôi ngăn lắm kẻ thật nhân từ,
Hành thiện sự nhiều để lợi tha,
Tôi cản bước chân bao kẻ khác,
Sẵn lòng lấy của cải đem cho.
680.
Bảo: ‘Bố thí không tạo phước phần,
Ðâu là kết quả tự điều thân?
Không hề có đạo sư nào cả,
Ai sẽ phạt người không hiến dâng?
681.
Giữa các hữu tình đồng đẳng nhau,
Tại sao kính trọng vị niên cao?
Có đâu nỗ lực và tinh tấn,
Nói đến tinh cần bởi cớ sao?
682.
Bố thí không mang quả phước phần,
Cũng không trừ diệt một cừu nhân,
Mỗi người được những gì cần có,
Và nhận những gì phải đến thân.
683.
Chẳng có mẹ cha, huynh đệ đâu,
Không đời này cũng chẳng đời sau,
Cũng không bố thí, không dâng cúng,
Không có gì bền vững được lâu.
684.
Hễ ai đánh đập một người nào,
Hoặc có đem người khác chặt đầu,
Cũng chẳng làm gì gây tổn hại,
Giữa muôn loài vật sống bên nhau.
685.
Mỗi mạng sống đều bất khả phân,
Dầu hình bát giác hoặc cầu lăn,
Nó cao đến cả năm trăm dặm,
Ai có thể tiêu diệt nó chăng?
686.
Cũng giống cuộn dây được ném ra,
Từ người thả nó chạy lăn xa,
Như vầy là mạng người đang sống,
Thoát được những ai thả nó mà.
687.
Như người từ giã một ngôi làng,
Vào một làng kia phải thấy đường,
Cũng vậy một con người tận số,
Bước vào thân xác mới tha phương.
688.
Như người từ giã một ngôi nhà,
Và bước vào nơi trú ngụ kia,
Cũng vậy là con người tận số,
Ði vào một cảnh giới phương xa.
689.
Sau khi qua hết nẻo luân hồi,
Tám triệu bốn trăm ngàn kiếp trôi,
Tất cả kẻ ngu cùng bậc trí,
Thảy đều chấm dứt khổ đau rồi.
690.
Lạc ưu đo được bằng thùng giỏ,
Người chiến thắng thông hiểu sự đời.’”
Kẻ khác đều là phường xuẩn ngốc,
Tôi mang tà kiến cả đời tôi.
691.
Xưa kia tôi lầm lạc lắm mê si,
Tà kiến, tôi không đạo hạnh gì,
Tôi lại xan tham, hay phỉ báng,
Không đầy sáu tháng sẽ ra đi.
692-93.
Ðọa vào địa ngục hãi kinh sao,
Có bốn góc và bốn cửa vào,
Ngục được chia phần theo kích thước,
Xung quanh bao bọc với tường rào,
Làm bằng sắt nóng và trên mái,
Cũng có sắt che tận đỉnh cao.
694-97.
Nền sắt ánh lên lửa nóng bừng,
Sáng ngời mọi phía trăm do-tuần,
Trăm ngàn năm đã trôi qua mất,
Lập tức một âm thanh chuyển rung,
Những kẻ tà tâm và ác tính,
Ðã từng phỉ báng các chân nhân,
Bị hành địa ngục vô lượng kiếp,
Chốn ấy sẽ đau khổ chẳng ngừng.
698.
Cho nên tôi thống thiết than van,
Kết quả ác hạnh kia phải mang,
Xin lắng nghe tôi, tâu Chúa thượng,
Anh hùng khai quốc, chúc an khang!
Nguyên tôi có một cô con gái,
Tên gọi Uttarā thật ngoan.
699.
Nàng hành thiện sự thấy an vui,
Giữ bát quan trai giới đúng thời,
Nàng sống điều thân ham bố thí,
Nhân từ khôn khéo lúc trao lời.
700.
Nhất mực tuân theo giáo pháp nhà,
Nàng làm dâu quý tộc danh gia,
Nàng là đệ tử Ngài Viên Giác,
Bậc Trí vinh quang tộc Thích-ca.
701.
Một Tỷ-kheo cao đạo khác thường,
Ra đi khất thực bước vào làng,
Mắt người cúi xuống, thân điều phục,
Chánh niệm và phòng hộ các căn,
Trong lúc đi từng nhà khất thực,
Dần dần người đến tận nhà nàng.
702.
Uttarā lúc ấy nhìn người,
Chúc Chúa công luôn hưởng phước trời!
Nàng đã dâng người bình nước uống,
Cùng nhiều bánh bột lại thưa lời:
703.
“Tôn giả, cha con đã mất rồi,
Mong sao lễ mọn giúp cho người.”
Không lâu sự việc nàng vừa thấy,
Kết quả tức thì đến với tôi.
704.
Tôi hưởng thức ăn lạc thú tràn,
Khác nào Thiên đế Tỳ-sa-môn.
Hỡi anh hùng mở mang bờ cõi,
Xin lắng nghe đây, tấu Chúa công!
705.
Phật-đà được gọi đấng Siêu Nhân,
Giữa các thiên, nhân ở cõi trần,
Hãy đến quy y vào đức Phật,
Cùng đàn thê tử hỡi anh hùng!
706.
Nhiều người đạt bất tử vô sanh,
Do chính đạo kia có tám ngành,
Cùng vợ con đi tìm giáo pháp,
Ðể quy y hỡi bậc hùng anh!
707.
Cùng bước đi trên bốn đạo này,
Trú trong bốn quả quý cao thay,
Chư Tăng trực hạnh và tu luyện,
Giới đức trang nghiêm, trí tuệ đầy.
708.
Hỡi bậc anh hùng, xin hãy đi!
Cùng đoàn thê tử thọ tam quy,
Mau mau bỏ giết loài sanh vật,
Không lấy trộm cho dẫu vật gì,
Không uống rượu nồng, không nói dối,
Hãy bằng lòng với vị vương phi.
[Quân vương:]
709.
Ngài muốn ta an, hỡi dạ-xoa!
Ngài mong lợi ích với hoàng gia,
Phần ta thực hiện lời ngài dạy,
Ngài chính là sư phụ của ta.
710-11.
Ta đến quy y đấng Phật-đà,
Tối cao Giáo pháp, với Tăng-già,
Ta mau bỏ hết điều sanh sát,
Không lấy vật gì chẳng tặng ta,
Không uống rượu nồng, không nói dối,
Biết bằng lòng với vợ trong nhà.
712.
Ta bỏ khoe khoang với xảo ngôn,
Nhanh như thể đổ xuống dòng sông.
Ta nôn ra hết bao tà kiến,
Thích thú tuân lời dạy Thế Tôn.
713.
Nói vầy xong, chúa tể Suraṭṭha,
Từ bỏ ngay quan điểm ác tà,
Ðảnh lễ Thế Tôn, rồi Chúa thượng,
Hướng về Đông, ngự giá vương xa.
Nhờ thần lực của vị quỷ nhân, nhà vua về kinh thành kịp ngày hôm ấy. Về sau đúng thời, vua tường thuật chuyện ấy với chư Tỷ-kheo và chư vị này, lại trình vấn đề với chư Trưởng lão biên soạn giáo pháp để đưa câu chuyện vào hội đồng kết tập kinh tạng thứ ba.16
Tham khảo:
15 Xem Pv. 9, Khallāṭiyapetivatthu (Chuyện ngạ quỷ sói đầu); Pv. 27, Dhanapālaseṭṭhipetavatthu (Chuyện ngạ quỷ Dhanapāla); Vv. 90, Tatiyanāgavimānavatthu (Chuyện thứ ba về lâu đài con voi); A. I. 138, Devadūtasutta (Kinh Thiên sứ); J. VI. 4, Mūgapakkhajātaka (Chuyện Vương tử què câm), số §538; J. VI. 221, Mahānāradakassapajātaka (Chuyện bậc Đại trí Nārada Kassapa), số §545.
16 Xem PvA. 256.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.