Bậc Ðạo sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Jetavana.
Trước khi đức Phật đản sinh, trong quốc độ Dasaṇṇa, tại kinh thành Erakaccha, có một vị chủ ngân khố tên là Dhanapāla (Tài Hộ), là một người không có lòng tin, không mộ đạo, keo kiệt và đầy tà kiến. Những công việc của vị này có thể hiểu được qua Kinh điển Pāli. Lúc từ trần, vị ấy tái sanh làm ngạ quỷ trong một vùng sa mạc hoang vắng. Ngạ quỷ đi lang thang khắp nơi, bị đói khát giày vò, hành hạ.
Thời ấy, một số thương nhân sống ở Sāvatthi chất đầy hàng hóa lên năm trăm cỗ xe và khi đã đến Uttarāpatha, họ bán các hàng ấy. Sau đó, họ lại chất đầy hàng hóa lên xe để trở về.
Họ khởi hành lên đường về nhà, lúc chiều tối, họ đến tại một gốc cây. Ở đấy, họ tháo cương bỏ bầy bò ra và tạm trú qua đêm. Thế rồi ngạ quỷ kia bị cơn khát nước giày vò liền đến nơi ấy kiếm thứ gì để uống, nhưng không được giọt nào, nó liền thốt tiếng kêu. Khi thấy nó, các thương nhân hỏi:
Ngươi yếu ớt xương sườn lộ rõ,
Ngươi là ai đấy hỡi vong nhân?
[Ngạ quỷ đáp:]
228.
Tôn giả, ta là ngạ quỷ nhân,
Thần dân xấu số của Diêm vương,
Vì ta đã phạm hành vi ác,
Ta đến nơi ma đói ẩn thân.
[Những thương nhân:]
229.
Ngày xưa ngươi phạm ác hạnh gì,
Do khẩu, ý, thân đã thực thi?
Vì hạnh nghiệp nào ngươi đã đọa,
Từ đây đến cảnh giới âm ty?
[Ngạ quỷ:]
230.
Kinh thành bộ tộc Dasaṇṇa,
Danh vọng lẫy lừng Erakaccha,
Thuở trước ta là nhà triệu phú,
Với tên Tài Hộ tặng cho ta.
231.
Tám mươi ngàn chẵn cỗ xe lừa,
Chất chứa vàng ròng sở hữu ta,
Thuở đó ta nhiều vàng bạc lắm,
Ngọc trai, ngọc mắt báo đầy nhà.
232.
Như vậy ta là đại phú ông,
Nhưng ta lại chẳng muốn cho không,
Khi ta ăn uống ta cài cửa,
Ðể bọn ăn mày chẳng ngóng trông.
233.
Xưa ta không mộ đạo xan tham,
Keo kiệt dùng lời nói hại nhân,
Ta cản nhiều người chuyên bố thí,
Những người làm phận sự chuyên cần.
234.
Ta nói: “Không sao có phước phần,
Dành cho việc bố đức thi ân,
Tu thân đâu có đem thành quả?”
Ta phá bao nguồn nước vệ đường,
Ao giếng hồ sen vườn cảnh đẹp,
Lối đi hiểm trở khó băng ngang.
235.
Như vậy ta không tạo phước ân,
Làm người gây ác nghiệp từ trần,
Tái sanh vào xứ loài ma quỷ,
Ðói khát luôn hành hạ khổ thân,
236.
Từ đấy đến nay ta tạ thế,
Tính ra vừa đủ năm lăm năm.
Ẩm thực ta không được hưởng phần,
Do không có bố đức thi ân,
Thì điều tai hại là như vậy,
Vì ngạ quỷ luôn hiểu biết rằng:
“Nếu chẳng muốn thi ân bố đức,
Thì điều tai hại cũng ngang bằng.”
237.
Thuở trước ta không muốn phát ban,
Ta không bố thí các kho tàng,
Mặc dù bố thí là công đức,
Ta chẳng tạo nên chốn trú an.
238.
Ngày nay ta hối hận ăn năn,
Nặng trĩu trong lòng bởi phải mang,
Hậu quả việc làm bao ác nghiệp,
Và sau bốn tháng sẽ từ trần.
239.
Ðọa miền địa ngục hãi hùng sao,
Có bốn góc và bốn cửa vào,
Ngục được chia phần theo kích thước,
Xung quanh bao bọc với tường rào,
Làm bằng sắt nóng và trên mái,
Cũng có sắt che tận đỉnh cao.
240.
Nền bằng sắt rực lửa bừng bừng,
Nóng bỏng chói lòa khắp mọi phương,
Ðịa ngục muôn đời còn đứng mãi,
Trải dài luôn cả trăm do-tuần.
241.
Nơi kia ta chịu khổ lâu dài,
Thọ quả do tà nghiệp chín muồi,
Vì thế ta thường ân hận mãi,
Khóc than thực tế chẳng hề nguôi.
242.
Bởi vậy ta đem chuyện thật hay,
Nói cùng chư vị họp nơi đây,
Ðừng bao giờ phạm hành vi ác,
Dù giấu kín hay được tỏ bày.
243.
Nếu ngươi đang phạm việc sai lầm,
Hoặc sắp phạm thì nỗi khổ tâm,
Sẽ chẳng rời ngươi dù trốn tránh,
Bay lên trời đến giữa hư không.
244.
Hãy luôn tôn kính mẹ cùng cha,
Quý trọng bậc niên trưởng tại nhà,
Quy ngưỡng Bà-la-môn, đạo sĩ,
Do vầy thiên giới sẽ chờ ta.
245.
Không giữa trời hay giữa biển thanh,
Dẫu đi vào kẽ núi non xanh,
Cũng không tìm được trong trần thế,
Nơi chốn thoát thân khỏi ác hành.
Các thương nhân thương xót ngạ quỷ liền rảy nước vào mồm nó. Nhưng vì ác nghiệp của ngạ quỷ kia, nó không thể nuốt được. Họ hỏi nó:
– Thế giờ đây ngươi không thể nào dịu bớt đôi chút khổ đau?
Ngạ quỷ đáp:
– Có thể được khi ác nghiệp này đã được tiêu trừ. Nếu giờ đây có lễ vật cúng dường đức Như Lai hoặc chư đệ tử của Ngài và công đức lễ cúng dường ấy được hồi hướng đến ta, thì ta sẽ được giải thoát ra khỏi kiếp sống ngạ quỷ này.
Khi các thương nhân đã nghe chuyện ngạ quỷ xong, họ trở về Sāvatthi, trình lên đức Thế Tôn rồi suốt bảy ngày làm đại lễ cúng dường Tăng chúng có đức Phật làm thượng thủ và hồi hướng công đức ấy đến ngạ quỷ.
Tham khảo:
8 Xem Pv. 9, Khallāṭiyapetivatthu (Chuyện ngạ quỷ sói đầu); Pv. 79, Nandakapetavatthu (Chuyện ngạ quỷ Nandaka); A. I. 138, Devadūtasutta (Kinh Thiên sứ); Dh. v. 337.