Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tiểu Bộ Quyển 1/ CHUYỆN NGẠ QUỶ/ II. PHẨM UBBARĪ
§15. CHUYỆN NGẠ QUỶ MATTĀ (Mattāpetivatthu) (Pv. 14; PvA. 82)
Bậc Ðạo sư kể chuyện này trong khi đang trú tại Jetavana (Kỳ Viên). Thuở ấy, tại Sāvatthi (Xá-vệ), có một vị địa chủ đầy tín tâm và đạo hạnh.
Tuy thế, bà vợ Mattā lại không có lòng tin, không mộ đạo, bản tính hay nóng giận và không có con.
Sau đó, ông sợ dòng họ bị tuyệt tự, đã cưới một phụ nữ khác tên là Tissā. Nàng có lòng tin, mộ đạo và làm đẹp lòng chồng, nàng sinh một con trai được đặt tên là Bhūta. Là bà chủ nhà, nàng kính cẩn phục vụ bốn Tỷ-kheo thọ trai.
Không thể chịu đựng mãi tình địch, khi đã quét nhà xong, Mattā đổ rác lên đầu Tissā. Về sau Mattā từ trần và tái sanh làm nữ ngạ quỷ, phải chịu nỗi khốn khổ trăm phần vì nghiệp lực của mình.
Nỗi thống khổ của bà được thấy rõ trong bài kinh này. Rồi một hôm, nữ ngạ quỷ nhớ lại quá khứ, liền hiện hình trước Tissā lúc ấy đang tắm rửa sau nhà. Khi thấy ngạ quỷ, Tissā hỏi:
134.
Trần truồng và xấu xí hình dung,
Gầy guộc và thân thể nổi gân,
Ngươi yếu ớt xương sườn lộ rõ,
Ngươi là ai hiện đến đây chăng?
[Mattā:]
135.
Mattā là chị, hỡi Tissā,
Chị lấy chồng chung một kiếp xưa,
Do chị đã gây nên ác nghiệp,
Từ đây đọa đến cõi yêu ma.
[Tissā:]
136.
Ngày xưa đã phạm ác hạnh gì,
Do khẩu, ý, thân chị thực thi,
Vì hạnh nghiệp nào nên đã đọa,
Từ đây đến cảnh giới âm ty?
[Mattā:]
137.
Xưa chị ác tâm lắm hận sân,
Xan tham, dối trá lại ghen hờn,
Vì dùng ác ngữ làm thương tổn,
Chị đọa từ đây đến cõi âm.
[Tissā:]
138.
Em còn nhớ mọi chuyện ngày xưa,
Chị thật hung hăng thuở bấy giờ,
Song có việc này em muốn hỏi:
Tại sao mình chị phủ đồ dơ?
[Mattā:]
139.
Một buổi em vừa tắm gội xong,
Áo quần sạch sẽ mới vừa mang,
Chị đây quả thật còn hơn thế,
Chị điểm tô nhiều món nữ trang.
140.
Khi điểm trang vầy chị ngó qua,
Em đang nói chuyện với chồng ta,
Chính vì việc ấy niềm ganh tị,
Cuồng nộ trong lòng bộc phát ra.
141.
Rồi chị cầm đồ rác bụi lên,
Ðúng là chị đã rải đầu em,
Vì do kết quả hành vi ấy,
Chị phải giờ đây chịu lấm lem.
[Tissā:]
142.
Thật em biết mọi chuyện ngày xưa,
Chị rảy lên em lắm bụi dơ,
Nhưng có việc này em muốn hỏi:
Tại sao chị ngứa ngáy giày vò?
[Mattā:]
143.
Tìm dược thảo xưa hai chúng ta,
Cùng đi vào tận chốn rừng già,
Em tìm các cỏ cây làm thuốc,
Chị hái quả cây kapika.
144.
Lúc ấy em không biết chút nào,
Giường em chị rải chúng nhiều sao,
Vì do kết quả hành vi ấy,
Chị bị giày vò ngứa biết bao!
[Tissā:]
145.
Thật ra em biết rõ hoàn toàn,
Chị rải trái kia khắp cả giường,
Song có việc này em muốn hỏi:
Tại sao chị phải chịu trần truồng?
[Mattā:]
146.
Ngày kia có cuộc họp thân bằng,
Tụ tập họ hàng lại thật đông,
Em đã được mời đi dự lễ,
Cùng chồng ta đó, chị thì không.
147.
Thế rồi em chẳng biết hoàn toàn,
Chị lấy cất đi mọi áo quần,
Do chính việc này sinh kết quả,
Giờ đây chị phải chịu trần truồng.
[Tissā:]
148.
Thật ra em biết chuyện kia mà,
Chị lấy áo quần em quẳng xa,
Song có việc này em muốn hỏi:
Sao mùi xú uế chị xông ra?
[Mattā:]
149.
Vòng hoa hương liệu với trầm hương,
Chị lấy của em vứt hố phân,
Do quả chị làm ra ác nghiệp,
Chị xông mùi xú uế vô cùng.
[Tissā:]
150.
Ðúng là em biết rõ điều này,
Ác nghiệp kia do chị đã gây,
Song có việc này em muốn hỏi:
Tại sao chị khốn khổ như vầy?
[Mattā:]
151.
Tài sản trong nhà của chúng ta,
Thuộc về cả chị lẫn em mà,
Cúng dường bố thí là công đức,
Song chị không hề tự tạo ra,
Một chỗ trú an nay khốn khổ,
Là do kết quả lỗi lầm xưa.
152.
Em thường bảo chị chính lời này:
“Chị cả đang hành ác nghiệp đây,
Song nếu không làm điều tổn đức,
Về sau sẽ hưởng phước tràn đầy.”
[Tissā:]
153.
Thái độ hận sân chị đến gần,
Bên em, chị tật đố ghen hờn,
Hãy nhìn quy luật điều chân lý,
Kết quả hành vi ác đã làm.
154.
Chị lắm gia nhân ở tại nhà,
Nữ trang đầy đủ thật xa hoa,
Ngày nay chúng được người ngoài hưởng,
Lạc thú ở đời chỉ thoảng qua.
155.
Giờ đây cha của bé Bhūta,
Từ chợ sắp quay trở lại nhà,
Ông sẽ tặng quà cho chị đó,
Ðừng đi, hãy đợi lát giây mà.
[Mattā:]
156.
Trần truồng dị tướng quá hao gầy,
Mình mẩy đường gân nổi rõ đầy,
Ðây chiếc khố che phần hạ thể,
Ðừng cho bố trẻ thấy ta vầy.
[Tissā:]
157.
Này chị, muốn em tặng thứ nào,
Làm gì giúp đỡ chị hay sao,
Ðể cho chị được nhiều an lạc,
Hạnh phúc mọi điều thỏa ước ao?
[Mattā:]
158.
Ðây bốn Tỷ-kheo của chúng Tăng,
Và thêm vào đó bốn Sa-môn,
Cúng dường tám vị và hồi hướng,
Công đức cho ta được hưởng phần,
Sau đó ta tràn đầy hạnh phúc,
Thỏa lòng ao ước được hồng ân.
Chuyện kể tiếp:
159.
“Ðược lắm!”, nàng vừa nói vậy xong,
Liền đem dâng cúng tám Sa-môn,
Phạn trai cùng với nhiều y phục,
Hồi hướng phước phần đến cố nhân.
160. Lập tức ngay sau lễ cúng dâng,
Phước phần hồi hướng đến vong nhân,
Ðây là kết quả từ công đức,
Thức uống, thức ăn, lẫn áo quần.
161.
Sáng ngời y phục thật thanh tân,
Tơ lụa Ba-la-nại tuyệt trần,
Mang đủ nữ trang và kiểu áo,
Ðến gần vợ kế của phu quân.
[Tissā:]
162.
Hỡi nàng thiên nữ dáng siêu phàm,
Ðang chiếu mười phương sáng rỡ ràng,
Thiên nữ sắc nàng trông chói lọi,
Như vì sao cứu hộ trần gian.
163.
Dung sắc này do nghiệp quả nào,
Phước phần nàng hưởng bởi vì sao,
Bất kỳ lạc thú nào trong dạ,
Yêu chuộng nàng đều thỏa ước ao?
164.
Hỡi nàng thiên nữ đại oai thần,
Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
Vẻ huy hoàng chiếu khắp mười phương?
[Mattā:]
165.
Mattā là chị, hỡi Tissā!
Chị lấy chung chồng một kiếp qua,
Do chị đã gây nên ác nghiệp,
Từ đây đọa tới cõi yêu ma,
Nhờ em dâng lễ nay an hưởng,
Chị chẳng sợ gì mọi hướng xa.
166.
Mong em trường thọ với thân nhân!
Em hỡi, mong em hưởng phước ân!
Ðạt cảnh ly sầu bi dục vọng,
Cõi trời của Hóa Lạc thiên thần.
167.
Em sống đời sùng đạo cúng dường,
Tại đây bố thí hỡi hồng nhan,
Ðoạn trừ gốc rễ xan tham ấy,
Em đến cõi thiên phước nghiệp tràn.