Viện Nghiên Cứu Phật Học

Phật giáo nguyên thuỷ/Kinh Tạng Pali/Kinh Trung Bộ

147. Tiểu kinh giáo giới La-hầu-la (Cūḷarāhulovāda Sutta)

416. Như vầy tôi nghe.

Một thời, Thế Tôn ở Sāvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tinh xá ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc). Rồi Thế Tôn trong khi nhàn tịnh độc cư, khởi lên tư niệm sau đây: “Đã thuần thục là những pháp[2] đưa đến giải thoát cho Rāhula. Vậy Ta hãy huấn luyện Rāhula hơn nữa trong sự đoạn tận các lậu hoặc.” Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Sāvatthi để khất thực. Sau khi đi khất thực ở Sāvatthi, sau buổi ăn, trên con đường trở về, Thế Tôn cho gọi Tôn giả Rāhula và nói:

– Này Rāhula, hãy cầm tọa cụ, chúng ta sẽ đi đến rừng Andha[3] để nghỉ trưa!

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Tôn giả Rāhula vâng đáp Thế Tôn, cầm lấy tọa cụ và đi theo sau lưng Thế Tôn.

Lúc bấy giờ, hàng ngàn chư thiên đi theo Thế Tôn và nghĩ rằng: “Hôm nay, Thế Tôn sẽ huấn luyện cho Tôn giả Rāhula hơn nữa trong sự đoạn tận các lậu hoặc.”

Rồi Thế Tôn đi sâu vào Andhavana và ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn dưới một gốc cây. Tôn giả Rāhula đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Rāhula đang ngồi một bên:

417. – Này Rāhula, ông nghĩ thế nào? Con mắt là thường hay vô thường?

– Bạch Thế Tôn, là vô thường.

– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

– Bạch Thế Tôn, là khổ.

– Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái ấy: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”?

– Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.

– Này Rāhula, ông nghĩ thế nào? Sắc là thường hay vô thường?

– Bạch Thế Tôn, là vô thường.

– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

– Bạch Thế Tôn, là khổ.

– Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái ấy: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”?

– Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.

– Này Rāhula, ông nghĩ thế nào? Nhãn thức là thường hay vô thường?

– Bạch Thế Tôn, là vô thường.

– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

– Bạch Thế Tôn, là khổ.

– Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái ấy: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”?

– Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.

– Này Rāhula, ông nghĩ thế nào? Nhãn xúc là thường hay vô thường?

– Bạch Thế Tôn, là vô thường.

... (như trên)...

– Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.

– Này Rāhula, ông nghĩ thế nào? Do duyên nhãn xúc này, được khởi lên thọ, tưởng, hành, thức; pháp được khởi lên ấy là thường hay vô thường?

– Bạch Thế Tôn, là vô thường.

... (như trên)...

– Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.

418. – Này Rāhula, ông nghĩ thế nào? Tai là thường hay vô thường?

– Bạch Thế Tôn, là vô thường.

... (như trên)...

– Mũi là thường hay vô thường?... (như trên). Lưỡi là thường hay vô thường?... (như trên). Thân là thường hay vô thường?... (như trên). Ý là thường hay vô thường?

– Bạch Thế Tôn, là vô thường.

... (như trên)...

– Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.

– Này Rāhula, ông nghĩ thế nào? Pháp là thường hay vô thường?

... (như trên)...

– Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.

– Này Rāhula, ông nghĩ thế nào? Ý thức là thường hay vô thường?

... (như trên)...

– Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.

– Này Rāhula, ông nghĩ thế nào? Ý xúc là thường hay vô thường?

... (như trên)...

– Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.

– Này Rāhula, ông nghĩ thế nào? Do duyên ý xúc này, được khởi lên thọ, tưởng, hành, thức; các pháp [được khởi lên] ấy là thường hay vô thường?

– Bạch Thế Tôn, là vô thường.

... (như trên)...

– Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.

419. – Này Rāhula, do thấy vậy, vị đa văn Thánh đệ tử yểm ly con mắt, yểm ly các sắc, yểm ly nhãn thức, yểm ly nhãn xúc; do duyên nhãn xúc này, được khởi lên thọ, tưởng, hành, thức. Vị ấy yểm ly pháp [được khởi lên] ấy. Vị ấy yểm ly tai, yểm ly các tiếng... yểm ly mũi, yểm ly các hương... yểm ly lưỡi, yểm ly các vị... yểm ly thân, yểm ly các xúc... yểm ly ý, yểm ly các pháp, yểm ly ý thức, yểm ly ý xúc; do duyên ý xúc này, được khởi lên thọ, tưởng, hành, thức. Vị ấy yểm ly các pháp [được khởi lên] ấy. Do yểm ly, vị ấy ly tham; do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát là sự hiểu biết: “Ta đã được giải thoát.” Và vị ấy biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa.”

Thế Tôn thuyết giảng như vậy, Tôn giả Rāhula, hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong khi sự thuyết giảng này được nói lên, tâm của Tôn giả Rāhula được giải thoát khỏi các lậu hoặc,[4] không có chấp thủ. Và đối với hàng ngàn chư thiên ấy, được khởi lên Pháp nhãn ly trần vô cấu: “Phàm cái gì được khởi lên, tất cả đều bị diệt tận.”

CHÚ THÍCH



[1] Xem S. II. 244-47; IV. 105, Rāhulovāda Sutta. Tham chiếu: Tạp. 雜 (T.02. 0099.200. 0051a15).
[2] Dhammā. Có 15 pháp, tức là 5 căn (tín, tấn, niệm, định, tuệ) được thanh tịnh theo 3 cách. Xem MA. V. 98.
[3] Andhavana. Xem BD. II. 36, n. 3.
[4]4 MA. V. 99 viết rằng Kinh UpāliKinh Dīghanakha chỉ đề cập Đạo thứ nhất; Kinh Brahmāyu đề cập đến ba Quả; ở đây đề cập đến bốn Đạo và bốn Quả, cho một số chư thiên là bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất lai và một số vị đã đoạn tận các lậu hoặc.


Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.