Viện Nghiên Cứu Phật Học

Phật giáo nguyên thuỷ/Kinh Tạng Pali/Kinh Trung Bộ

116. Kinh thôn tiên (Isigili Sutta)

133. Như vầy tôi nghe.

Một thời, Thế Tôn trú tại Rājagaha (Vương Xá), trên núi Isigili. Ở đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo!

– Bạch Thế Tôn.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

– Này các Tỷ-kheo, các ông có thấy núi Vebhāra (Phụ Trọng) này không?

– Thưa có thấy, bạch Thế Tôn.

– Này các Tỷ-kheo, đây chỉ là một danh xưng khác cho núi Vebhāra[2] này, một tên gọi khác. Này các Tỷ-kheo, các ông có thấy núi Paṇḍava (Bạch Thiện) này không?

– Thưa có thấy, bạch Thế Tôn.

– Này các Tỷ-kheo, đây chỉ là một danh xưng khác cho núi Paṇḍava này, một tên gọi khác. Này các Tỷ-kheo, các ông có thấy núi Vepulla (Quảng Phổ) này không?

– Thưa có thấy, bạch Thế Tôn.

– Này các Tỷ-kheo, đây chỉ là một danh xưng khác cho núi Vepulla[3] này, một tên gọi khác. Này các Tỷ-kheo, các ông có thấy Gijjhakūṭa (núi Linh Thứu) này không?

– Thưa có thấy, bạch Thế Tôn.

– Này các Tỷ-kheo, đây chỉ là một danh xưng khác cho Gijjhakūṭa này, một tên gọi khác. Này các Tỷ-kheo, các ông có thấy núi Isigili này không?

– Thưa có thấy, bạch Thế Tôn.

– Này các Tỷ-kheo, đây chỉ là một danh xưng khác cho núi Isigili, một tên gọi khác.

Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có năm trăm vị Độc Giác Phật sống trong một thời gian khá dài trong núi Isigili này. Những vị ấy được thấy đi vào trong ngọn núi này, [nhưng] khi đi vào rồi thời không được thấy nữa. Quần chúng thấy vậy nói như sau: “Ngọn núi này nuốt những Ẩn sĩ ấy (Ime isī gilatī) nên được danh xưng là Isigili. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ chỉ tên các vị Độc Giác Phật. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ kể tên các vị Độc Giác Phật. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết giảng tên các vị Độc Giác Phật. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau:

134. – Ariṭṭha (A-lợi-sá),[4] này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. Upariṭṭha (Bà-lợi-sá), này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. Tagarasikhi, này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. Yasassi, này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. Sudassana (Thiện Kiến), này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. Piyadassi, này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. Gandhāra, này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. Piṇḍola, này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. Upāsabha, này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. Nīta, này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. Tatha, này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. Sutavā, này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. Bhāvitatta, này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này.

135. Chư hữu tình tinh hoa,[5]

Không khổ,[6] không tham ái,

Riêng tự mình chứng đắc,

Chánh Đẳng Giác [vô thượng].

Chư vị Thượng Thắng Nhân,

Vượt ngoài mũi tên bắn,[7]

Hãy lóng tai nghe kỹ,

Ta sẽ xướng danh hiệu:

Ariṭṭha, Upariṭṭha, Tagarasikhi, Yasassi,

Sudassana, Phật Piyadassi

Gandhāra, Piṇḍola,

Upāsabha, Nīta, Tatha, Sutavā, Bhāvitatta.

Sumbha, Subha, Methula,

Aṭṭhama, Athassumegha,

Anīgha, Sudāṭha

Chư vị Độc Giác Phật,

Đoạn trừ nguồn tái sanh.

Hiṅgū và Hiṅga,

Chư vị đại oai lực,

Hai Ẩn sĩ Jāli,

Rồi đến Aṭṭhaka,

Đức Phật Kosalla,

Tiếp đến Subāhu,

Ngài Upanemisa, cả Ngài Nemisa này,

Ngài Santacitta, các Ngài bậc Chơn thật,

Sống như chơn, ly trần,

Cũng là bậc Hiền triết.

Kāḷa, Upakāḷa, Vijita, Jita,

Aṅga, Paṅga và Gutijjita,

Passi bỏ chấp thủ,

Căn rễ của khổ đau.

Aparājita, đánh bại Ma quân lực.

Satthā, Pavattā, Sarabhaṅga, Lomahaṃsa,

Uccaṅgamāya, Asita, Anāsava,

Manomaya đoạn trừ được nạn.

Và Bandhumā,

Tadādhimutta vô cấu uế,

Và Ketumā,

Ketumbarāga và Mātaṅga Ariya,

Accuta, Accutagāma, Byāmaka,

Sumaṅgala, Dabbila, Supatiṭṭhita,

Asayha, Khemābhirata và Sorata,

Durannaya, Saṅgha, rồi đến Ujjaya,

Rồi đến Ẩn sĩ Sayha,

Với can đảm phi thường.[8]

Ānanda, Nanda, Upananda,

Tất cả là mười hai.[9]

Bhāradvāja thọ trì thân cuối cùng,

Bodhi, Mahānāma, kể cả Bhāradvāja,

Thượng thắng, có chóp tóc và đẹp trai,

Tissa, Upatissa, Upasīdari,

Đã đoạn hữu kiết sử,

Và Sīdari, đã đoạn trừ tham ái.

Đức Phật tên Maṅgala,

Với tham được đoạn trừ,

Usabha đã cắt lưới khổ căn.

Upaṇīta, vị chứng An tịnh đạo.

Uposatha, Sundara, Saccanāma,

Jeta, Jayanta, Paduma, Uppala và Padumuttara,

Rakkhita và Pabbata,

Mānatthaddha, Sobhita, Vītarāga,

Và đức Phật Kaṇha,

Với tâm được giải thoát.

Những vị này, vị khác,

Là những bậc Độc Giác,

Những bậc Đại Uy lực,

Đã đoạn nguồn tái sanh.

Hãy đảnh lễ chư vị,

Đại Ẩn sĩ vô thượng,

Đã thắng mọi chiến trận,

Đã đạt Bát-niết-bàn.

CHÚ THÍCH



[1] Xem Mhvu. 357. Tham chiếu: Tăng. 增 (T.02. 0125.38.7. 0723a06).
[2] Ngọn núi này và 4 núi kế tiếp bao bọc thành Vương Xá. Xem SnA. 382.
[3] Xem S. II. 190-93.
[4] Tên của 13 vị với huyền thoại khi xuất hiện được đề cập đến trong DPPN.
[5] MA. IV. 129 viết “… sau khi đề cập đến 13 vị Độc Giác, rồi kể tên các chúng sinh vượt trội trong các loài…”. Sattasārā: Chỉ cho các chúng sinh vượt trội trong các loài.
[6] Anīghā đồng nghĩa Niddukkha. Xem MA. IV. 129.
[7] Visalla. Xem S. I. 180; Sn. v. 17, 86, 369.
[8] Anomanikkama. MA. IV. 129; D. III. 156 viết nikkama, và trong MA. cũng viết là viriyattā.
[9] Bốn vị Ānanda, bốn vị Nanda và bốn vị Upananda. Xem MA. IV. 129.


Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.