Tam tạng Thánh điển PGVN 05 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 05»
Kinh Tiểu Bộ Quyển 1
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU dịch
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN
Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tiểu Bộ Quyển 1/ TRƯỞNG LÃO NI KỆ/ CHƯƠNG XIII. HAI MƯƠI KỆ (VĪSATINIPĀTA)
Trong thời đức Phật hiện tại, cô sanh ở Benares (Ba-la-nại), con của Sujāta, một Bà-la-môn. Vì thân cô đẹp đẽ, cô được gọi là Sundarī. Khi cô lớn, em trai cô chết, cha cô quá đau khổ đi lang thang và gặp Trưởng lão Ni Vasiṭṭhī. Khi Trưởng lão Ni hỏi cha cô bị đau khổ gì, cha cô trả lời bằng hai câu kệ đầu. Ðể làm nhẹ bớt đau khổ, Trưởng lão Ni nói hai câu kệ tiếp và nói lên tâm trạng giải thoát khỏi đau khổ của chính cô. Vị Bà-la-môn hỏi làm sao Trưởng lão Ni lại được giải thoát khỏi đau khổ như vậy, vị Trưởng lão Ni trả lời về Ba ngôi báu và sự quy y. Khi được biết bậc Ðạo sư nay ở Mithilā, vị Bà-la-môn đánh xe đến Mithilā yết kiến đức Phật. Ðức Phật thuyết pháp, vị Bà-la-môn khởi lòng tin, xin xuất gia, vào ngày thứ ba chứng quả A-la-hán sau khi tinh tấn, tinh cần phát triển thiền quán.
Người đánh xe, đánh xe về nhà vị Bà-la-môn và nói cho nữ Bà-la-môn sự việc đã xảy ra. Sundarī nghe vậy, cô xin mẹ xuất gia. Bà mẹ nói nay toàn thể tài sản đều thuộc của cô, hãy thọ hưởng tài sản ấy. Sundarī nói rằng tài sản không có nghĩa gì đối với cô, cô chỉ muốn xuất gia. Sau khi được bà mẹ bằng lòng, cô bỏ cả tài sản như những vật vô giá trị. Nhờ tinh cần tinh tấn, nhờ chủng tử tốt lành, nhờ trí tuệ chín muồi, không bao lâu cô chứng quả A-la-hán với pháp tín thọ và nghĩa tín thọ.
Sống trong sự an lạc giải thoát, cô nghĩ: “Ta sẽ rống lên tiếng rống con sư tử trước mặt bậc Ðạo sư!” Sau khi xin phép vị Thầy của mình, cô rời khỏi Benares với một số đông Tỷ-kheo-ni, và cuối cùng đến Sāvatthi yết kiến đức Phật, đảnh lễ Ngài rồi đứng một bên. Đứng một bên, cô nói lên chánh trí của cô, xem mình như là con gái được sanh ra từ miệng đức Bổn Sư. Và tất cả bà con cô, bắt đầu từ mẹ cô và các người hầu cận đều xuất gia. Suy nghĩ đến quả chứng của mình và dùng lời tuyên bố của người cha, cô nói lên sự phấn khởi của cô như sau:
[Sujāta:]
313.
Hỡi nữ Bà-la-môn,
Những con cô đã chết,
Trong thời gian quá khứ,
Thần chết ăn nghiến chúng,
Cả ngày và cả đêm,
Khổ đau nung nấu cô.
314. Nay có đến bảy con,
Bị thần chết vồ lấy,
Nhưng này Vāsiṭṭhī,
Chính vì lý do gì,
Cô không bị đau khổ,
Não hại và nung nấu?
[Vāsiṭṭhī:]
315. Nhiều trăm con trai ta,
Hàng trăm chúng bà con,
Ðã bị thần chết ăn,
Của ta và của ngươi!
316.
Ta biết đường giải thoát,
Khỏi sanh và khỏi chết,
Ta không sầu, không khóc,
Ta không bị nung nấu.
[Sujāta:]
317.
Hỡi cô Vāsiṭṭhī,
Vi diệu thay, lời người!
Cô biết pháp của ai,
Cô nói được như vậy?
[Vāsiṭṭhī:]
318.
Hỡi này, Bà-la-môn,
Bậc Chánh Ðẳng Giác này,
Ở thành Mithilā,
Ngài thuyết cho hữu tình,
Chánh pháp thật vi diệu,
Ðoạn tận mọi khổ đau.
319.
Hỡi này Bà-la-môn,
Ta nghe La-hán ấy,
Thuyết pháp không sanh y,
Ở đây, nhờ hiểu rõ,
Ta biết pháp vi diệu,
Sầu vì con quét sạch.
[Sujāta:]
320.
Con sẽ đi ngay đến,
Thành phố Mithilā!
Mong bậc Thế Tôn ấy,
Giúp con thoát mọi khổ,
Bà-la-môn thấy Phật,
Bậc Giải Thoát Mọi Khổ.
321.
Bà-la-môn thấy Phật,
Bậc Giải Thoát Vô Sanh,
Bậc Mâu-ni Vượt Khổ,
Thuyết pháp cho vị ấy.
322.
Thuyết khổ, khổ tập khởi,
Vượt qua sự đau khổ,
Thuyết Thánh đạo tám ngành,
Con đường lắng dịu khổ.6
323.
Ở đây hiểu Diệu pháp,
Hoan hỷ chọn xuất gia,
Sujāta ba đêm,
Chứng đạt được Ba minh.
324.
Hãy đi, người đánh xe,
Ðánh xe này về nhà,
Chúc nữ Bà-la-môn,
Ðược sức khỏe, không bệnh,
Và nói vị Phạm chí,
Nay đã xuất gia rồi,
Sujāta ba đêm,
Chứng đạt được Ba minh.
325.
Người đánh xe lấy xe,
Cùng với ngàn đồng tiền,
Chúc nữ Bà-la-môn,
Ðược sức khỏe,không bệnh,
Và nói vị Phạm chí,
Nay đã xuất gia rồi,
Sujāta ba đêm,
Chứng đạt được Ba minh.
[Mẹ của Sundarī:]
326.
Hỡi này người đánh xe,
Xe ngựa, ngàn tiền này,
Khi nghe vị Phạm chí,
Ðã đạt được Ba minh,
Ta cho ngươi đầy bát,
Cả xe và ngàn tiền.
327.
– Hỡi nữ Bà-la-môn!
Hãy giữ lại cho ngươi,
Xe ngựa và ngàn tiền,
Tôi sẽ đi xuất gia,
Sống thân cận gần gũi,
Bậc Trí Tuệ Tối Thắng.
328.
– Voi, trâu bò và ngựa,
Châu báu và vòng vàng,
Những gì làm gia tài,
Trở nên giàu có này,
Cha con đã xuất gia,
Ðã bỏ lại tất cả...
Này con Sundarī,
Con thừa tự gia đình,
Hãy thọ hưởng tài sản,
Của đại gia đình này.
329.
– Voi, trâu bò và ngựa,
Châu báu và vòng vàng,
Những gì làm gia tài,
Trở nên cám dỗ cô,
Sầu khổ vì đứa con,
Cha con đã xuất gia,
Ðã từ bỏ tất cả,
Gia sản sự nghiệp này,
Con nay sẽ xuất gia,
Sầu khổ vì anh con.
330.
– Hỡi này Sundarī,
Nếu đấy ước nguyện con,
Mong rằng tâm tư ấy,
Ðược thành tựu viên mãn,
Nuôi sống bằng đồ ăn,
Tích lũy nhờ khất thực,
Y áo được tác thành,
Với miếng vải lượm lặt,
Những nếp sống như vậy,
Ðược thành tựu viên mãn.
Khiến lậu hoặc đoạn tận,
Trong thế giới đời sau.
[Sundarī:]
331.
Kính thưa Trưởng lão Ni,
Con đã học, tu tập,
Thiên nhãn được thanh tịnh,
Con biết các đời trước,
Tại chỗ con được sống,
Trước kia như thế nào.7
332.
Nhờ Ni sư, con được,
Ôi, bạn lành của con!
Bậc Sáng chói tốt đẹp,
Trong chúng Trưởng lão Ni.
Ba minh đã chứng đạt,
Lời Phật dạy làm xong.
333.
Ni sư hãy cho phép,
Con đi đến Xá-vệ,
Con sẽ rống vang lên,
Tiếng rống con sư tử,
Trước mặt bậc Giác Ngộ,
Phật-đà, bậc Tối Thượng.
334.
– Hỡi này Sundarī,
Cô thấy bậc Ðạo sư,
Màu da sắc màu vàng,
Như vàng ròng sáng chói!
Bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác,
Không điều gì sợ hãi,
Bậc Đã Điều Phục Được,
Kẻ chưa được điều phục.
335.
Ðang đi đến trước Ngài,
Ngài thấy Sundarī!
Ly tham,không hệ lụy,
Giải thoát,không sanh y,
Ðã làm việc phải làm,
Không còn các lậu hoặc.
336.
Từ thành Ba-la-nại,
Con đã bước ra đi,
Con đến bậc Ðại Hùng,
Con là Sundarī,
Con chính đệ tử Ngài,
Con đảnh lễ chân Ngài.
337.
Ngài là bậc Giác Ngộ,
Ngài là bậc Ðạo sư,
Con là con gái Ngài,
Ôi, bậc Bà-la-môn!
Con sanh từ miệng Ngài,
Ðã làm việc phải làm,
Không còn có lậu hoặc,
Con là Sundarī.
338.
– Hiền nữ, Ta mừng con,
Ðường còn lại không xa,
Như vậy bậc Tự điều,
Ðảnh lễ chân Ðạo sư,
Bậc Ly Tham, Ly Hệ,
Không hệ lụy trói buộc,
Ðã làm việc phải làm,
Không còn các lậu hoặc.
Tham khảo:
5 Tham chiếu: Thag. v. 1209; Thīg. v. 189, 291, 312; S. II. 185, Puggalasutta (Kinh Người); Dh. v. 191; It. 17, Aṭṭhipuñjasutta (Kinh Đống xương); Pháp cú kinh “Thuật Phật phẩm” 法句經述佛品 (T.04. 0210.22. 0567a01); Pháp cú thí dụ kinh “Ái dục phẩm” 法句譬喻經愛欲品 (T.04. 0211.32. 0600c22); Xuất diệu kinh “Quán phẩm” 出曜經觀品 (T.04. 0212.28. 0736b06); Pháp tập yếu tụng kinh “Quán sát phẩm” 法集要頌經觀察品 (T.04. 0213.27. 0791b03).
6 Xem Thīg. v. 186, 193, 311.
7 Xem Thīg. v. 104.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.