Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 05  »  Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 05»

Kinh Tiểu Bộ Quyển 1
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU dịch
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN

Mục Lục

Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tiểu Bộ Quyển 1/ TRƯỞNG LÃO NI KỆ/ CHƯƠNG XIII. HAI MƯƠI KỆ (VĪSATINIPĀTA)

§68. KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI CĀPĀ (Cāpātherīgāthā)3 (Thīg. 151; ThīgA. 220)

 

Trong thời đức Phật hiện tại, cô được sanh ở xứ Vaṅkahāra, trong làng những người thợ săn đặt bẫy mồi, con người chủ thợ săn và được đặt tên là Cāpā. Trong lúc ấy, Upaka một ẩn sĩ khổ hạnh gặp bậc Ðạo sư khi Ngài đi từ Bồ-đề đạo tràng đến Ba-la-nại để chuyển pháp luân và hỏi Ngài: “Này Ngài, hình như Ngài được dồi dào sức khỏe. Da của Ngài thật trong sáng. Này Ngài, Ngài từ ai xuất gia? Vị đạo sư của Ngài là ai? Hay Ngài tin tưởng giáo lý gì?” Và bậc Ðạo sư trả lời như sau:

Ta chinh phục tất cả,
Mọi sự việc, Ta biết,
Sống giữa vật không nhiễm,
Ta từ bỏ tất cả,
Mạng chung, ác đoạn tận,
Kiến thâm sâu, Ta chứng,
Ta chỉ ai cho ông,
Ta không có Bổn sư,
Trên đời đứng một mình,
Không ai sánh bằng Ta.
Nay Ta đang đi đến,
Thành phố Ba-la-nại,
Ðể vận chuyển pháp luân,
Quay bánh xe Chánh pháp,
Thức tỉnh và hướng dẫn,
Quần chúng đang mê muội,
Ðánh tiếng trống bất tử,
Rưới cam lồ giải thoát.

Vị ẩn sĩ, biết được sự giác ngộ và sứ mạng của Ngài nên nói: “Này Ngài, mong rằng sự việc sẽ như Ngài nói, Ngài xứng đáng là bậc Chiến Thắng Bất Diệt.” Rồi Upaka đi con đường tắt đến Vaṅkahāra, và sống gần chỗ các người thợ săn. Người chủ thợ săn lo cung phụng cho Upaka. Một hôm, người chủ đoàn thợ săn đi săn bắn xa với các con trai và anh em, bảo Cāpā lo cúng dường cho Upaka. Nhưng Cāpā rất đẹp và khi Upaka đến tại nhà để khất thực, Upaka mê say sắc đẹp của cô đến nỗi ăn không được, phải đem thức ăn về nhà và nguyện thà chịu chết nếu không lấy được Cāpā. Sau bảy ngày, người chủ thợ săn trở về hỏi vị A-la-hán của mình ở đâu, và được biết Upaka chỉ đến nhà mình một lần rồi thôi không đến nữa. Người thợ săn tìm đến Upaka và Upaka than khóc thú nhận sự đắm say của mình. Người thợ săn hỏi Upaka có biết nghề gì không, Upaka trả lời là không và chịu đi lượm các loài chim thú bị bắt được đem bán. Người thợ săn bằng lòng, cho Upaka một cái áo khoác ngoài, đưa về nhà và gả Cāpā cho. Sau một thời gian, Cāpā sanh được một người con trai và đặt tên là Subhadda. Khi đứa con khóc, Cāpā liền hát lên như sau để chế nhạo chồng mình: “Con của Upaka! Con của vị ẩn sĩ! Con kẻ bán đồ săn! Chớ khóc, chớ khóc này con.” Cuối cùng, Upaka tức quá trả lời: “Này Cāpā, đừng nghĩ rằng không có ai che chở cho ta! Ta có một người bạn, một vị Chiến Thắng Bất Diệt, ta sẽ đến với người bạn ấy.” Cāpā biết chồng mình tức giận, nhưng vẫn trêu chọc chồng. Cho đến một hôm, Upaka cương quyết ra đi, cô cố cản ngăn nhưng không được và cuối cùng Upaka ra đi để gặp Thế Tôn ở Sāvatthi. Thế Tôn dặn các Tỷ-kheo khi nào có ai đến hỏi: “Vị Chiến Thắng Bất Diệt ấy ở đâu?”, thời đưa người ấy vào gặp đức Phật. Khi Upaka đến tinh xá và hỏi: “Vị Chiến Thắng Bất Diệt ấy ở đâu?”, các Tỷ-kheo đưa Upaka đến gặp đức Phật. Ðức Phật cho Upaka xuất gia và cuối cùng Upaka chứng được quả Bất lai. Sau khi mạng chung, Upaka được sanh lên cõi trời Avihā; và sau khi tái sanh, Upaka chứng được quả A-la-hán.

Còn Cāpā đau buồn vì chồng bỏ đi, giao con lại cho ông ngoại rồi đi theo Upaka, xin được xuất gia và chứng được quả A-la-hán. Và lấy bài kệ của Upaka hợp chung với bài kệ của cô, cô nói lên sự phấn khởi của mình:
Upaka nói:

292.

Ta trước tay cầm gậy,
Nay ta thành thợ săn,
Sa đầm lầy khốn cùng,
Ta không đến bờ kia.

293.

Cāpā chọc đứa con,
Mỉa mai ta say đắm,
Chặt trói buộc Cāpā,
Ta nay đã xuất gia.

Cāpā nói:

294.

Chớ có tức giận em,
Hỡi bậc Đại chiến thắng,
Chớ có tức giận em,
Hỡi bậc Đại ẩn sĩ,
Kẻ bị giận chi phối,
Khổ hạnh khó thanh tịnh.

295.

– Ta sẽ rời Nālā! Ai ở lại Nālā,
Khi nếp sống đúng pháp,
Tại đấy vị Sa-môn,
Bị sắc đẹp nữ nhân,
Trói buộc vào quyến rũ.

296.

– Hãy trở lại thưa chàng,
Chàng mắt đen của thiếp,
Hãy hưởng thọ dục lạc,
Như trước chàng đã hưởng,
Thiếp xin phục tùng chàng,
Lại còn bà con thiếp.

297.

– Này Cāpā, phần tư,
Ðiều cô đã nói lên,
Ðối kẻ say mê cô,
Có thể thành lớn mạnh.

298.

– Chàng mắt đen của thiếp,
Thiếp chẳng đẹp hay sao,
Như cây lựu nảy mầm,
Nở hoa trên đầu núi,
Như dây leo giăng hoa,
Hay như bông thổi kèn,
Trong nội địa hoang đảo,
Hãy nhìn sắc đẹp thiếp.

299.

Ướp thơm với mùi hương,
Hương chiên-đàn đỏ thắm,
Thiếp mặc lụa Kāsi,
Lụa Kāsi tối thượng,
Thiếp đẹp như thế này,
Sao chàng bỏ rơi thiếp.

300.

– Như thợ săn bắt chim,
Muốn dùng mồi bắt chim,
Dầu bủa giăng sắc đẹp,
Cô không ngăn ta được! 

301.

– Còn đứa con trai này,
Do chàng, thiếp sanh ra,
Chàng mắt đen của thiếp,
Sao chàng lại từ bỏ,
Ðứa con trai của thiếp,
Ðứa con trai của chàng.

302.

– Bậc trí bỏ con trai,
Bỏ bà con, tài sản,
Bậc Đại hùng xuất gia,
Như voi biết trói buộc.

303.

– Con trai này của chàng,
Nay thiếp dùng gậy dao,
Ðánh ngã nó trên đất,
Hãy tự cứu con chàng,
Vì sầu muộn đứa con,
Chàng không thể bỏ đi.

304.

– Nếu cô quăng con trai,
Cho chó sói, loài chó,
Kẻ sanh con trai ta,
Không động lòng trắc ẩn,
Cô sẽ không làm được,
Khiến ta quay trở lại.

305.

– Nay mong chàng tốt lành,
Chàng mắt đen của thiếp,
Chàng sẽ đi đến đâu?
Làng nào, thị trấn nào?
Chàng đi thành phố nào?
Chàng đi kinh đô nào?

306.

– Xưa đời sống chúng tôi,
Tổ chức thành đồ chúng,
Không phải là Sa-môn,
Chúng tôi tưởng Sa-môn.
Chúng tôi sống bộ hành,
Làng này qua làng khác,
Sống trong những thành phố,
Cũng như tại thủ đô.

307.

Nay Phật, Thế Tôn này,
Dọc bờ sông Ni-liên,
Ngài thuyết giảng Chánh pháp,
Cho các loài hữu tình,
Ðoạn tận mọi khổ đau,
Ta nay đi đến Ngài,
Ngài sẽ là Ðạo sư,
Ðạo sư của chúng ta.

308.

– Nay chàng đi đảnh lễ,
Bậc Thế Tôn Vô Thượng,
Ði hữu nhiễu quanh Ngài,
Dâng Ngài lòng cung kính!

309.

– Cāpā, như cô nói,
Lợi ích cả hai ta,
Nay ta thay mặt cô,
Lễ Thế Tôn Vô Thượng,
Ði hữu nhiễu quanh Ngài,
Ta dâng lòng cung kính!

310.

Rời Nālā ra đi,
Dọc sông Ni-liên-thiền,
Thấy bậc Chánh Ðẳng Giác,
Thuyết pháp đạo bất tử.

311.

Thuyết khổ, khổ tập khởi,
Vượt qua sự đau khổ,
Thuyết đường Thánh tám ngành,
Ðưa đến khổ tịnh chỉ.4

312.

Ðảnh lễ chân Ngài xong,
Hữu nhiễu quanh Ngài xong,
Trình lên lời ước nguyện,
Của Cāpā vợ chàng.
Rồi chàng xin xuất gia,
Sống đời không gia đình,
Chứng đạt được Ba minh,
Làm xong lời Phật dạy.

Tham khảo:
3 Tham chiếu: Thag. v. 1209; Thīg. v. 189, 291, 312; S. II. 185, Puggalasutta (Kinh Người); Dh. v. 191; It. 17, Aṭṭhipuñjasutta (Kinh Đống xương); Pháp cú kinh “Thuật Phật phẩm” 法句經述佛品 (T.04. 0210.22. 0567a01); Pháp cú thí dụ kinh “Ái dục phẩm” 法句譬喻經愛欲品 (T.04. 0211.32. 0600c22); Xuất diệu kinh “Quán phẩm” 出曜經觀品 (T.04. 0212.28. 0736b06); Pháp tập yếu tụng kinh “Quán sát phẩm” 法集要頌經觀察品 (T.04. 0213.27. 0791b03).
4 Xem Thīg. v. 186, 193, 322.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.