Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 05  »  Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 05»

Kinh Tiểu Bộ Quyển 1
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU dịch
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN

Mục Lục

Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tiểu Bộ Quyển 1/ TRƯỞNG LÃO NI KỆ/ CHƯƠNG XII. MƯỜI SÁU KỆ (SOḶASANIPĀTA)

 

§65. KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI PUṆṆĀ (Puṇṇātherīgāthā)1 (Thīg. 146; ThīgA. 199)

 

Trong thời đức Phật hiện tại, cô được sanh ở Sāvatthi trong gia đình ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc), con gái của một người nô lệ. Cô chứng được quả Dự lưu khi nghe Kinh Sư tử hống.2 Về sau, khi cô hóa độ được một Bà-la-môn tin tưởng nhờ nước làm cho thanh tịnh, được cảm tình của ông chủ, cô được thoát khỏi giới nô lệ, và với sự bằng lòng của ông chủ, cô được xuất gia. Và nhờ triển khai thiền quán, cô chứng quả A-la-hán với pháp tín thọ và nghĩa tín thọ. Suy tư trên quả chứng của mình, cô nói lên những bài kệ như sau:

236.

– Mùa đông ta mang nước,
Luôn luôn xuống dòng nước,
Ta sợ các hình phạt,
Lời trách móc các bà.

237.

– Hỡi này Bà-la-môn,
Ngươi sợ hãi vì ai,
Luôn luôn xuống dòng nước,
Tay chân run cầm cập.
Ngươi phải chịu cảm thọ,
Rét lạnh quá độ vậy?

238.

 – Và cô có biết chăng,
Hỡi này Puṇṇikā,
Sao cô lại đến hỏi,
Vị làm các nghiệp lành,
Vị đã chặn đứng lại,
Các nghiệp ác bất thiện.

239.

Vị ấy già hay trẻ,
Làm các nghiệp ác độc,
Người ấy nhờ rảy nước,
Ðược giải thoát ác nghiệp.

240.

– Ai nói với ngươi vậy,
Kẻ ngu với kẻ ngu,
Người tin nhờ rảy nước,
Ðược giải thoát ác nghiệp.

241.

Tất cả những ếch, rùa,
Sẽ được lên cõi trời,
Cùng các rắn, cá sấu,
Và các thủy vật khác.

242.

Kẻ giết bò, giết heo,
Kẻ đánh cá, săn thú,
Các kẻ cướp giết người,
Các người làm ác khác,
Họ nhờ có rảy nước,
Có thể thoát ác nghiệp.

243.

Nếu những con sông này,
Có thể làm trôi mất,
Ác nghiệp xưa ngươi làm,
Chúng cũng làm trôi luôn,
Các thiện nghiệp ngươi làm,
Khiến ngươi thành rỗng không.

244.

Phạm chí vì cái gì,
Ngươi sợ phải xuống nước,
Cái ấy chớ có làm,
Chớ để lạnh hại da?

245.

– Ta đi theo tà đạo,
Cô hướng ta Thánh đạo,
Thưa cô, ta cho cô,
Cái áo thấm nước này.

246.

 – Ngươi giữ cái áo lại,
Ta không muốn cái áo!
Nếu ngươi sợ đau khổ,
Nếu ngươi không thích khổ.

247.

Chớ làm các điều ác,
Công khai hay kín đáo,
Nếu ngươi làm, sẽ làm,
Làm các điều ác nghiệp.

248.

Ngươi không thoát đau khổ,
Dầu thấy đến, ngươi chạy,
Nếu ngươi sợ đau khổ,
Không ưa thích đau khổ.

249.

Hãy đến quy y Phật,
Quy y Pháp và Tăng,
Hãy chấp nhận giới luật,
Ngươi sẽ được lợi ích.

250.

– Ta đến quy y Phật,
Quy y Pháp và Tăng,
Ta chấp nhận giới luật,
Ta sẽ được lợi ích.

251.

Trước ta là bà con,
Với tộc họ Phạm thiên,
Nay ta là Phạm chí,
Chơn thật là như vậy,
Ta chứng ngộ Ba minh,
Ðầy đủ trí Vệ-đà,
An ổn đến với ta,
Tâm tư được gột sạch.3

Vị Bà-la-môn quy y và thọ năm giới. Về sau được nghe bậc Ðạo sư thuyết pháp, trở thành một thiện nam và xuất gia. Nhờ tinh cần tu tập, không bao lâu chứng được Ba minh, và nghĩ đến quả chứng của mình, nói lên bài kệ này. Và vị Tỷ-kheo-ni lặp lại bài kệ ấy, trở thành bài kệ của mình.

 

Chú thích
1 Còn được gọi là Puṇṇikā. Xem Ap. II. 611, Puṇṇikātherīapadāna (Ký sự về Trưởng lão Ni Puṇṇikā); J. V. 264, Saṁkiccajātaka (Chuyện Hiền giả Saṁkicca), số §530.
2 Xem
M. I. 63, Cūḷasīhanādasutta (Tiểu kinh Sư tử hống), số 11; M. I. 67, Mahāsīhanādasutta (Đại kinh Sư tử hống), số 12.
3 Kệ 248-51, xem
Thīg. v. 288-91.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.