Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 05  »  Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 05»

Kinh Tiểu Bộ Quyển 1
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU dịch
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN

Mục Lục

Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tiểu Bộ Quyển 1/ Trưởng Lão Ni Kệ/ CHƯƠNG V - NĂM KỆ

§47. KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI PAṬĀCĀRĀ
(Paṭācārātherīgāthā)13 (Thīg. 134; ThīgA. 108)
Trong thời đức Phật hiện tại, cô sanh trong gia đình vị thủ ngân khố nhà vua ở Sāvatthi. Khi đến tuổi trưởng thành, cô giao du với một người đầy tớ trong  nhà. Khi cha mẹ cô định ngày gả cô cho một chàng trai xứng đôi, cô trốn đi với người tình nhân và sống tại một ngôi làng nhỏ. Khi cô sắp sanh, cô bảo chồng đưa cô về nhà cha mẹ, vì ở đây không có ai săn sóc cô, nhưng chồng cô cứ hẹn lần hẹn hồi cho đến khi cô biết chồng cô không muốn đi về. Cô liền chờ chồng đi vắng, sắp đặt công việc, tin cho người láng giềng biết rồi cô bỏ về nhà cha mẹ. Khi người chồng về, người chồng liền đuổi theo, sợ cô không có người săn sóc. Chồng cô bắt gặp cô và giữa đường cô sinh được người con rồi hai vợ chồng lại đi trở về làng.
Ðến kỳ sinh nở thứ hai, sự việc xảy ra như lần trước, nhưng có điểm khác biệt như sau: Giữa đường mưa to gió lớn nổi lên, người chồng tìm lá và cây làm cái chòi cho cô tránh mưa, nhưng bị con rắn từ gò mối bò ra cắn chồng cô chết tại chỗ. Trong cơn đau khổ chờ đợi chồng, cô bồng đứa con trên ngực và giữa mưa to gió lớn, cô nằm phục xuống đất để che chở cho hai đứa con, trải qua một đêm như vậy cho đến sáng. Ðến sáng, cô đi tìm chồng và thấy chồng bị rắn cắn chết rồi, cô khóc than suốt đêm. Vì mưa to, nước sông dâng lên đến đầu gối, cô lại quá yếu nên không thể bồng hai đứa con lội qua sông, cô để đứa lớn ở bờ bên này và bồng đứa nhỏ lội qua sông. Rồi cô đặt đứa nhỏ nằm trên khăn trùm đầu, dùng cành cây che lại để nó trên bờ, còn cô lội qua sông lại để đem đứa lớn qua. Nhưng đến giữa dòng, quay mình trở lại thời thấy một con diều hâu, tưởng đứa con nít là
một miếng thịt, nên bay xuống tha đứa nhỏ đi. Dầu cho người mẹ có xua đuổi và la lên nhưng vì quá xa nên không làm gì được. Còn đứa lớn bên bờ bên này, nghe tiếng mẹ la tưởng là mẹ kêu, liền lội xuống nước đi qua và bị nước cuốn trôi. Thế là hai đứa con và cả người chồng bị chết. Cô vừa khóc vừa đi về thành Sāvatthi, lại được tin hồi hôm mưa to gió lớn làm sụp đổ căn nhà của cha mẹ cô, giết chết cả cha mẹ và em cô, lễ hỏa táng vừa làm xong. Trong cơn đau khổ khủng khiếp chồng chất, cô hóa điên dại, ăn mặc hở hang, cô vừa khóc vừa than:
Hai con ta đã chết,
Chồng ta cũng chết luôn,
Rồi trên giàn hỏa táng,
Cha ta và mẹ ta,
Cùng đứa em trai ta,
Vừa làm lễ thiêu đốt.
Rồi cô đi lang thang đây đó, khóc than nỗi đau khổ của cô, và vì cô mang xiêm áo tả tơi, cô được gọi là Paṭācārā (kẻ mang xiêm áo). Người đi đường thấy cô, gọi cô là người điên, có kẻ ném đá, có người thì quăng đồ nhớp bụi bặm trên cô.
Bậc Ðạo sư ở Jetavana đang thuyết pháp, thấy cô đi lang thang như vậy và biết căn cơ trí tuệ của cô đã chín muồi, ngăn cản không cho người ta xua đuổi cô và cho phép lại gần, khiến cô hồi tỉnh lại, và cảm thấy xấu hổ với cách ăn mặc của mình, cô nằm phục xuống đất. Một người quăng cho cô một tấm y, cô quấn y vào mình và thỉnh Phật cứu độ cho cô, và cô kể lại thân phận của cô: “Thế Tôn hãy cứu độ cho con! Một đứa con bị chim diều hâu mang đi; một đứa con bị nước cuốn trôi; còn chồng con bị rắn cắn chết; cha mẹ, em con bị căn nhà sụp đổ giết chết và bị hỏa táng.” 
Ðức Phật nói: “Này Paṭācārā, đừng nghĩ rằng cô đến với một người có thể cứu độ cho cô. Như nay cô than khóc vì con chết, v.v... Cũng vậy, cô đã khóc than kiếp luân hồi của cô vì rằng con bị chết, v.v... còn nhiều hơn nước sông bốn biển.”
Nước bốn biển ít hơn,
Nước mắt của loài người,
Khóc than vì đau khổ,
Vậy sao cô hủy hoại,
Sanh mạng của chính mình,
Trong khóc than sầu khổ!
Nghe Thế Tôn dạy về con đường không thể diệt khổ, nỗi đau khổ của cô được nhẹ dần. Rồi đức Phật khuyên thêm: “Ôi Paṭācārā, một người mạng chung thì con cháu, bà con không có thể làm chỗ nương tựa. Cho đến hiện tại, họ cũng không giúp đỡ được gì. Do vậy, người có trí sống đời sống giới đức thanh tịnh, thành tựu con đường hướng đến Niết-bàn.” Rồi đức Phật dạy:
Các con, cha, bà con,
Không phải chỗ nương tựa,
Khi thân hoại mạng chung,
Bà con huyết thống cô,
Không thể che chở cô,
Thấy được sự thật này,
Kẻ trí sống giới đức,
Và mau chóng thành tựu,
Con đường hướng Niết-bàn.
Khi bậc Ðạo sư nói xong, cô chứng quả Dự lưu và xin được xuất gia. Ðức Phật đưa cô đến chúng Tỷ-kheo-ni và cho phép cô được xuất gia.
Rồi cô tinh tấn tu hành, cố gắng thành đạt những quả vị cao hơn. Một hôm lấy nước trong bát rửa chân, khi cô đổ nước, thời nước chảy đến một khoảng đường ngắn rồi biến mất. Cô đổ thêm nước, con đường nước chảy dài hơn và lần thứ ba, cô lại đổ nước, con đường nước chảy còn dài hơn trước khi biến mất. Dựa trên sự kiện này làm nền tảng suy tư, cô nghĩ: “Cũng vậy là loài người, chết trẻ, chết nửa chừng và chết già.” Và đức Phật ở tại hương phòng của Ngài phóng hào quang, hiện ra trước mặt cô và dạy rằng: “Hỡi cô Paṭācārā, như vậy là cuộc sống của loài người, cuối cùng cũng phải mạng chung. Vậy tốt hơn là sống như thế nào để thấy sự sanh diệt của năm uẩn, dầu cho chỉ thấy được một ngày hay chỉ một sát-na, còn hơn sống một trăm năm mà không thấy được sự thật ấy.”
Người sống một trăm năm,
Không thấy pháp sanh diệt,
Tốt hơn, sống một ngày,
Thấy được pháp sanh diệt.14
Khi Thế Tôn nói xong, Paṭācārā chứng được quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Suy tư đến quả chứng của mình, khi còn là một Học nữ, cô tán thán sự kiện đã giúp cô chứng được quả vị cao hơn và cô nói lên bài kệ:
112.
Với roi, cày, ruộng đất,
Gieo hạt giống trên đất,
Loài người được tài sản,
Nuôi dưỡng vợ và con.
113.
Sao ta, giới đầy đủ,
Làm theo Ðạo sư dạy,
Lại không chứng Niết-bàn,
Không nhác, không dao động.
114.
Khi ta đang rửa chân,
Làm cho dòng nước chảy,
Thấy được nước rửa chân,
Từ cao chảy xuống thấp,
Nhờ vậy tâm được định,
Như ngựa hiền khéo luyện.
115.
Rồi ta cầm cây đèn,
Bước vào ngôi tinh xá,
Nằm trên chiếc giường nhỏ,
Ta nhìn quán ngọn đèn.
116. Rồi lấy cây kim nhỏ,
Dìm tim đèn xuống dần,
Thấy cây đèn Niết-bàn,
Tâm ta được giải thoát.
Tham khảo:
13 Xem Ap. II. 557, Paṭācārātherīapadāna (Ký sự về Trưởng lão Ni Paṭācārā).
14 Xem Dh. v. 113.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.