Tam tạng Thánh điển PGVN 05 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 05»
Kinh Tiểu Bộ Quyển 1
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU dịch
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN
Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tiểu Bộ Quyển 1/ PHÁP CÚ/ XXVI. PHẨM BÀ-LA-MÔN
XXVI. PHẨM BÀ-LA-MÔN (BRĀHMAṆAVAGGA)317 (Dh. 55)
383. Hỡi này Bà-la-môn,
Hãy tinh tấn đoạn dòng,
Từ bỏ các dục lạc,
Biết được hành đoạn diệt,
Người là bậc Vô vi.318
384. Nhờ thường trú hai pháp,319
Ðến được bờ bên kia,
Bà-la-môn có trí,
Mọi kiết sử dứt sạch.
385. Không bờ này, bờ kia,320
Cả hai bờ không có,
Lìa khổ, không trói buộc,
Ta gọi Bà-la-môn.321
386. Tu thiền, trú ly trần,
Phận sự xong, vô lậu,
Ðạt được đích tối thượng,
Ta gọi Bà-la-môn.322
387. Mặt trời sáng ban ngày,
Mặt trăng sáng ban đêm,
Khí giới sáng Sát-lỵ,
Thiền định sáng Phạm chí,
Còn hào quang đức Phật,
Chói sáng cả ngày đêm.323
388. Dứt ác gọi Phạm chí,
Tịnh hạnh gọi Sa-môn,
Tự mình xuất cấu uế,
Nên gọi bậc xuất gia.324
389. Chớ có đập Phạm chí,
Phạm chí chớ đập lại!
Xấu thay đập Phạm chí,
Ðập trả lại xấu hơn!
390. Ðối vị Bà-la-môn,
Ðây325 không lợi ích nhỏ,
Khi ý không ái luyến,
Tâm hại được chặn đứng,
Chỉ khi ấy khổ diệt.
391. Với người thân, miệng, ý,
Không làm các ác hạnh,
Ba nghiệp được phòng hộ,
Ta gọi Bà-la-môn.326
392. Từ ai biết Chánh pháp,
Bậc Chánh Giác thuyết giảng,
Hãy kính lễ vị ấy,
Như Phạm chí thờ lửa.
393. Ðược gọi Bà-la-môn,
Không vì đầu bện tóc,
Không chủng tộc, thọ sanh,
Ai thật chơn, chánh, tịnh,
Mới gọi Bà-la-môn.327
394. Kẻ ngu, có ích gì,
Bện tóc với da dê,
Nội tâm toàn phiền não,
Ngoài mặt đánh bóng suông.328
395. Người mặc áo đống rác,
Gầy ốm, lộ mạch gân,
Ðộc thân thiền trong rừng,
Ta gọi Bà-la-môn.329
396. Ta không gọi Phạm chí,
Vì chỗ sanh, mẹ sanh,
Chỉ được gọi tên suông,
Nếu tâm còn phiền não,
Không phiền não, chấp trước,
Ta gọi Bà-la-môn.330
397. Ðoạn hết các kiết sử,
Không còn gì lo sợ,
Không đắm trước buộc ràng,
Ta gọi Bà-la-môn.
398. Bỏ đai da,331 bỏ cương,332
Bỏ dây,333 đồ sở thuộc,334
Bỏ then chốt,335 sáng suốt,
Ta gọi Bà-la-môn.336
399. Không ác ý, nhẫn chịu,
Phỉ báng, đánh, phạt hình,
Lấy nhẫn làm quân lực,
Ta gọi Bà-la-môn.
400. Không hận, hết bổn phận,
Trì giới, không tham ái,
Nhiếp phục, thân cuối cùng,
Ta gọi Bà-la-môn.
401. Như nước trên lá sen,
Như hột cải đầu kim,
Người không nhiễm ái dục,
Ta gọi Bà-la-môn.
402. Ai tự trên đời này,
Giác khổ, diệt trừ khổ,
Bỏ gánh nặng, giải thoát,
Ta gọi Bà-la-môn.
403. Người trí tuệ sâu xa,
Khéo biết đạo, phi đạo,
Chứng đạt đích Vô thượng,
Ta gọi Bà-la-môn.
404. Không liên hệ cả hai,
Xuất gia và thế tục,
Sống độc thân, ít dục,
Ta gọi Bà-la-môn.
405. Bỏ trượng, đối chúng sanh,
Yếu kém hay kiên cường,
Không giết, không bảo giết,
Ta gọi Bà-la-môn.337
406. Thân thiện giữa thù địch,
Ôn hòa giữa hung hăng,
Không nhiễm giữa nhiễm trước,
Ta gọi Bà-la-môn.338
407. Người bỏ rơi tham sân,
Không mạn, không ganh tị,
Như hột cải đầu kim,
Ta gọi Bà-la-môn.
408. Nói lên lời ôn hòa,
Lợi ích và chơn thật,
Không mất lòng một ai,
Ta gọi Bà-la-môn.
409. Ở đời, vật dài, ngắn,
Nhỏ, lớn, đẹp hay xấu,
Phàm không cho, không lấy,
Ta gọi Bà-la-môn.
410. Người không có hy cầu,
Ðời này và đời sau,
Không hy cầu, giải thoát,
Ta gọi Bà-la-môn.
411. Người không còn tham ái,
Có trí, không nghi hoặc,
Thể nhập vào bất tử,
Ta gọi Bà-la-môn.
412. Người sống ở đời này,
Không nhiễm cả thiện ác,
Không sầu, sạch không bụi,
Ta gọi Bà-la-môn.
413. Như trăng sạch, không uế,
Sáng trong và tịnh lặng,
Hữu ái được đoạn tận,
Ta gọi Bà-la-môn.
414. Vượt đường nguy hiểm này,
Nhiếp phục luân hồi, si,
Ðến bờ kia thiền định,
Không dục ái, không nghi,
Không chấp trước, tịch tịnh,
Ta gọi Bà-la-môn.339
415. Ai ở đời đoạn dục,
Bỏ nhà, sống xuất gia,
Dục hữu được đoạn tận,
Ta gọi Bà-la-môn.
416. Ai ở đời đoạn ái,
Bỏ nhà, sống xuất gia,
Ái hữu được đoạn tận,
Ta gọi Bà-la-môn.
417. Bỏ trói buộc loài người,
Vượt trói buộc cõi trời,
Giải thoát mọi buộc ràng,
Ta gọi Bà-la-môn.
418. Bỏ điều ưa, điều ghét,
Mát lạnh, diệt sanh y,
Bậc Anh hùng chiến thắng,
Nhiếp phục mọi thế giới,
Ta gọi Bà-la-môn.
419. Ai hiểu rõ hoàn toàn,
Sanh tử các chúng sanh,
Không nhiễm, khéo vượt qua,
Sáng suốt chơn giác ngộ,
Ta gọi Bà-la-môn.
420. Với ai, loài trời, người,
Cùng với càn-thát-bà,
Không biết chỗ thọ sanh,
Lậu tận, bậc La-hán,
Ta gọi Bà-la-môn.
421. Ai quá, hiện, vị lai,
Không một sở hữu gì,
Không sở hữu, không nắm,
Ta gọi Bà-la-môn.340
422. Bậc Trâu chúa, Thù thắng,
Bậc Anh hùng, Đại sĩ,
Bậc Chiến thắng, Không nhiễm,
Bậc Tẩy sạch, Giác ngộ,
Ta gọi Bà-la-môn.
423. Ai biết được đời trước,
Thấy thiên giới, đọa xứ,
Ðạt được sanh diệt tận,
Thắng trí tự viên thành,
Bậc Mâu-ni Đạo sĩ,
Viên mãn mọi thành tựu,
Ta gọi Bà-la-môn.341
Tham khảo:
317 Tham chiếu: Pháp cú kinh “Sa-môn phẩm” 法句經沙門品 (T.04. 0210.34. 0571c29); Pháp cú kinh “Phạm chí phẩm” 法句經梵志品 (T.04. 0210.35. 0572b20); Xuất diệu kinh “Sa-môn phẩm” 出曜經 沙門品 (T.04. 0212.12. 0678a17); Xuất diệu kinh “Phạm chí phẩm” 出曜經梵志品 (T.04. 0212.34. 0768c14); Pháp tập yếu tụng kinh “Phạm chí phẩm” 法集要頌經梵志品 (T.04. 0213.33. 0798a01).
318 Câu kệ 383-423, xem S. I. 49, 111; Sn. v. 620-47.
319 Chỉ cho chỉ và quán.
320 Chỉ cho sáu nội xứ, sáu ngoại xứ.
321 Xem Sn. v. 1129.
322 Xem M. II. 196; Sn. 214; CNid. 6.
323 Xem S. I. 15, 32, 106; II. 284.
324 Xem Ud. 3.
325 Chỉ cho sự trả đũa, trả thù.
326 Xem It. 96; J. III. 148, 524; Netti. 128, 183.
327 Xem Ud. 6, Jaṭilasutta (Kinh Kẻ bện tóc); Netti. 128.
328 Xem J. I. 480; III. 85.
329 Xem Thag. v. 243.
330 Câu kệ 396-423, xem M. II. 196; Sn. 115.
331 Chỉ cho “hận”.
332 Chỉ cho “ái”.
333 Chỉ cho “tà kiến”.
334 Chỉ cho “tùy miên”.
335 Chỉ cho “vô minh”.
336 Xem S. I. 16, 63.
337 Xem Dh. v. 142; Mhvu. I. 358.
338 Xem S. I. 236.
339 Xem A. IV. 290.
340 Xem Thag. v. 537.
341 Xem M. II. 133, 144; S. I. 167, 356, 375; A. I. 165; It. 99, Thīg. v. 63.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.