Tam tạng Thánh điển PGVN 01 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 01 »
Kinh Trường Bộ
HT Thích Minh Châu Dịch
Phật giáo nguyên thuỷ/Kinh Tạng Pali/Kinh Trường Bộ
275. Như vầy tôi nghe.
Một thời, Thế Tôn ở tại Rājagaha (Vương Xá), Gijjhakūṭa (núi Linh Thứu). Bốn Thiên Vương sau khi sắp đặt trấn giữ bốn phương với đại quân yakkha (dạ-xoa), đại quân gandhabba (càn-thát-bà), đại quân kumbhaṇḍa (cưu-bàn-trà) và đại quân nāga (na-già), án ngữ bốn phương, bảo trì bốn phương, trong đêm tối thâm sâu, với hào quang tuyệt diệu chói sáng toàn thể núi Linh Thứu, đến tại chỗ Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Các vị dạ-xoa, có vị đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; có vị nói lên những lời chúc tụng, hỏi thăm rồi ngồi xuống một bên; có vị nói lên tên họ rồi ngồi xuống một bên; có vị im lặng rồi ngồi xuống một bên.
276. Sau khi ngồi xuống một bên, Đại vương Vessavaṇa (Tỳ-sa-môn) bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, có những thượng phẩm dạ-xoa không tin tưởng Thế Tôn; bạch Thế Tôn, có những thượng phẩm dạ-xoa tin tưởng Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, có những trung phẩm dạ-xoa không tin tưởng Thế Tôn; bạch Thế Tôn, có những trung phẩm dạ-xoa tin tưởng Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, có những hạ phẩm dạ-xoa không tin tưởng Thế Tôn; bạch Thế Tôn, có những hạ phẩm dạ-xoa tin tưởng Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, nhưng phần lớn các dạ-xoa không tin tưởng Thế Tôn. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn, Thế Tôn thuyết pháp để từ bỏ sát sanh, thuyết pháp để từ bỏ trộm cắp, thuyết pháp để từ bỏ tà dâm, thuyết pháp để từ bỏ nói láo, thuyết pháp để từ bỏ uống các loại rượu. Bạch Thế Tôn, tuy vậy, phần lớn các dạ-xoa đều không từ bỏ sát sanh, không từ bỏ trộm cắp, không từ bỏ tà dâm, không từ bỏ nói láo, không từ bỏ uống các loại rượu. Đối với họ, pháp ấy không được ưa thích, không được đón mừng. Bạch Thế Tôn, có những đệ tử của Thế Tôn sống trong chốn thâm sơn cùng cốc, ít tiếng, ít động, có gió mát từ ngoài đồng thổi, ẩn náu, không cho người thấy, thích hợp tịnh tu. Tại chỗ ấy, có những thượng phẩm dạ-xoa không tin tưởng lời dạy Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, hãy học chú Ᾱṭānāṭiyarakkha (A-sá-nang-chi Hộ kinh) để họ được lòng tin, để các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ có thể sống an lạc, được che chở, được hộ trì, không bị tai họa.
Thế Tôn im lặng chấp thuận.
Rồi Đại vương Vessavaṇa, biết được Thế Tôn đã chấp thuận, trong giờ phút ấy, đọc lên bài Ᾱṭānāṭiya Hộ kinh:
277. Đảnh lễ Vipassī (Tỳ-bà-thi)
Sáng suốt và huy hoàng!
Đảnh lễ đấng Sikhī (Thi-khí)
Có lòng thương muôn loài!
Đảnh lễ Vessabhū (Tỳ-xá-bà)
Thanh tịnh, tu khổ hạnh!
Đảnh lễ Kakusandha (Câu-lưu-tôn)
Vị nhiếp phục ma quân!
Đảnh lễ Koṇāgamana (Câu-na-hàm)
Bà-la-môn viên mãn!
Đảnh lễ Kassapa (Ca-diếp)
Vị giải thoát muôn mặt!
Đảnh lễ Aṅgīrasa
Vị Thích tử huy hoàng,
Đã thuyết Chơn diệu pháp,
Diệt trừ mọi khổ đau!
Ai yểm ly thế giới,
Nhìn đời đúng như chơn,
Vị ấy không hai lưỡi,
Bậc Vĩ Đại, Thanh Thoát.
Cùng đảnh lễ Gotama,
Lo an lạc nhơn, thiên
Trì giới đức viên mãn,
Bậc Vĩ Đại, Thanh Thoát!
278. Mặt trời sáng mọc lên,
Vầng thái dương tròn lớn,
Khi mặt trời mọc lên,
Đêm tối liền biến mất.
Khi mặt trời mọc lên,
Liền được gọi là ngày.
Biển cả hải triều động,
Như hồ nước thâm sâu.
Ở đấy mọi người biết,
Chính biển cả hải triều,
Dân chúng gọi phương ấy,
Là phương Purimā (phương Đông).
Vị trị vì phương ấy,
Bậc Đại vương danh xưng,
Chủ loài càn-thát-bà,
Danh gọi Dhataraṭṭha (Trì Quốc Thiên Vương).
Càn-thát-bà hầu quanh,
Hưởng múa hát của họ.
Vua này có nhiều con,
Ta nghe chỉ một tên,
Tám mươi và mười một,
Đại lực, danh Inda.
Họ chiêm ngưỡng Thế Tôn,
Bậc Dòng Họ Mặt Trời.
Từ xa, họ lễ Phật,
Bậc Vĩ Đại, Thanh Thoát.
Đảnh lễ bậc Siêu Nhân!
Đảnh lễ bậc Thượng Nhân!
Thiện tâm nhìn chúng con,
Phi nhân cũng lễ Ngài.
Đã nhiều lần, nghe hỏi,
Nên đảnh lễ như vậy:
Quý vị xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Chúng con xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Đảnh lễ Gotama,
Bậc Trí Đức Viên Mãn!
279. Họ được gọi Peta,
Nói hai lưỡi, sau lưng,
Sát sanh và tham đắm,
Đạo tặc và man trá,
Dân chúng gọi phương ấy,
Là phương Dakkhiṇā (phương Nam).
Vị trị vì phương ấy,
Bậc Đại vương, danh xưng,
Chủ loài kumbhaṇḍa
Danh gọi Virūḷha (Tỳ-lâu-lặc).
Kumbhaṇḍa hầu quanh,
Hưởng múa hát của họ.
Vua này có nhiều con,
Ta nghe chỉ một tên,
Tám mươi và mười một,
Đại lực, danh Inda.
Họ chiêm ngưỡng Thế Tôn,
Bậc Dòng Họ Mặt Trời.
Từ xa, họ lễ Phật,
Bậc Vĩ Đại, Thanh Thoát
Đảnh lễ bậc Siêu Nhân!
Đảnh lễ bậc Thượng Nhân!
Thiện tâm nhìn chúng con
Phi nhân cũng lễ Ngài.
Đã nhiều lần, nghe hỏi,
Nên đảnh lễ như vậy:
Quý vị xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Chúng con xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Đảnh lễ Gotama,
Bậc Trí Đức Viên Mãn!
280. Mặt trời sáng lặn xuống,
Vầng thái dương tròn lớn.
Khi mặt trời lặn xuống,
Ban ngày liền biến mất.
Khi mặt trời lặn xuống,
Liền được gọi là đêm.
Biển cả hải triều động,
Như hồ nước thâm sâu,
Ở đấy mọi người biết,
Chính biển cả hải triều,
Dân chúng gọi phương ấy,
Là phương Pacchimā (phương Tây).
Vị trị vì phương ấy,
Bậc Đại vương, danh xưng,
Chủ các loài nāga,
Danh Virūpakkha (Tỳ-lâu-bác-xoa).
Loài nāga hầu quanh,
Hưởng múa hát của họ.
Vua này có nhiều con,
Ta nghe chỉ một tên,
Tám mươi và mười một,
Đại lực, danh Inda.
Họ chiêm ngưỡng Thế Tôn,
Bậc Dòng Họ Mặt Trời.
Từ xa, họ lễ Phật,
Bậc Vĩ Đại, Thanh Thoát:
Đảnh lễ bậc Siêu Nhân!
Đảnh lễ bậc Thượng Nhân!
Thiện tâm nhìn chúng con,
Phi nhân cũng lễ Ngài.
Đã nhiều lần nghe hỏi,
Nên đảnh lễ như vậy:
Quý vị xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Chúng con xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Đảnh lễ Gotama,
Bậc Trí Đức Viên Mãn!
281. Bắc Lô châu (Uttarakuru) an lạc,
Đại Neru (Tu-di) đẹp đẽ,
Tại đấy, mọi người sống,
Không sở hữu, chấp trước.
Họ không gieo hột giống,
Không cần phải kéo cày,
Loài người được thọ hưởng,
Lúa chín khỏi nhọc công.
Loại gạo không cám trấu,
Thanh tịnh có hương thơm,
Được nấu chín trên đá,
Và họ ăn gạo ấy.
Chỉ cưỡi loài bò cái,
Đi phương này phương khác.
Chỉ dùng các loài thú,
Đi phương này phương khác.
Dùng xe đàn bà kéo,
Đi phương này phương khác.
Dùng xe đàn ông kéo,
Đi phương này phương khác.
Dùng xe con gái kéo,
Đi phương này phương khác.
Dùng xe con trai kéo,
Đi phương này phương khác.
Họ lên trên các xe,
Đi khắp mọi phương hướng,
Để phục vụ vua mình.
Họ cưỡi xe voi kéo,
Xe ngựa, xe chư thiên,
Đối với vua danh xưng,
Có lâu đài, có kiệu,
Nhiều thành phố của vua,
Được xây giữa hư không.
Các thành Ᾱṭānāṭā, Kusināṭā,
Parakusināṭā, Nāṭapuriyā, Parakusiṭanāṭā,
Kapāvānta thuộc phía Bắc,
Và các thành phố khác,
Như Janogha, Navanavatiya,
Ambara, Ambaravatiya,
Ᾱḷakamandā,
Là kinh đô của vua,
Chỗ Kuvera ở.
Vị vua đáng kính này,
Kinh đô tên Visāṇā,
Do vậy Kuvera,
Được danh Vessavaṇa.
Các sứ quân được tên:
Tatolā, Tattalā, Tatotalā,
Ojasi, Tejasi, Tatojasi,
Vua Sūra, Ariṭṭha, Nemi.
Đây có vùng nước lớn,
Từ đây mưa đổ xuống,
Được tên Dharaṇī.
Nơi mùa mưa kéo dài,
Tại đây có giảng đường,
Tên Bhagalavati,
Chỗ dạ-xoa tập hội.
Tại đây nhiều cây trái,
Trên cây chim tụ họp,
Các loại công, loại cò,
Diệu âm chim Kokilā,
Ở đây, chim Jīva,
Kêu tiếng: “Hãy sống đi”,
Và tiếng chim kêu lên:
“Hãy khởi tâm thích thú”
Nhiều loại chim sai khác,
Ở rừng và ở hồ,
Với con vẹt ồn ào,
Và con chim Mynah,
Các loại chim thần thoại,
Gọi là Daṇḍamāṇavaka.
Hồ sen Kuvera,
Chiếu sáng tất cả trời,
Dân chúng gọi phương ấy,
Là phương Uttarā (phương Bắc).
Vị trị vì phương ấy,
Bậc Đại vương danh xưng,
Chủ các loài dạ-xoa,
Được gọi Kuvera.
Các dạ-xoa hầu quanh,
Hưởng múa hát của chúng.
Vua này có nhiều con,
Ta nghe chỉ một tên,
Tám mươi và mười một,
Đại lực, danh Inda.
Họ chiêm ngưỡng Thế Tôn,
Bậc Dòng Họ Mặt Trời.
Từ xa, họ lễ Phật,
Bậc Vĩ Đại, Thanh Thoát:
Đảnh lễ bậc Siêu Nhân!
Đảnh lễ bậc Thượng Nhân!
Thiện tâm nhìn chúng con,
Phi nhân cũng lễ Ngài.
Đã nhiều lần nghe hỏi,
Nên đảnh lễ như vậy:
Quý vị xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Chúng con xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Đảnh lễ Gotama,
Bậc Trí Đức Viên Mãn!
Tôn giả, Ᾱṭānāṭiya Hộ kinh này che chở, hộ trì, ngăn cản, không cho ai làm hại các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ và khiến các vị này sống an lạc.
282. Khi một vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ nào học Ᾱṭānāṭiya Hộ kinh này một cách chín chắn, rõ ràng, nếu có loài phi nhân nào như dạ-xoa, dạ-xoa nữ, con trai dạ-xoa, con gái dạ-xoa, đại thần của dạ-xoa, tùy tùng của dạ-xoa hay lao công của dạ-xoa; hoặc càn-thát-bà...; hoặc cưu-bàn-trà...; hoặc nāga... đi theo vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ khi vị này đi; đứng gần khi vị này đứng; ngồi khi vị này ngồi; nằm khi vị này nằm với tâm niệm độc ác, thời này Tôn giả, vị phi nhân ấy trong làng hay trong đô thị sẽ không được ai đón mừng hay kính trọng. Này Tôn giả, phi nhân ấy, trong kinh đô Āḷakamandā của ta sẽ không tìm được đất đai hay chỗ ở. Vị phi nhân ấy sẽ không được đi dự hội giữa các dạ-xoa. Này Tôn giả, vị phi nhân ấy sẽ không được cưới hỏi. Này Tôn giả, các hàng phi nhân sẽ dùng những lời nói hỗn láo xấc xược đối với vị ấy. Này Tôn giả, các hàng phi nhân sẽ dìm đầu vị ấy xuống. Này Tôn giả, các hàng phi nhân sẽ chẻ đầu vị ấy ra làm bảy mảnh.
Này Tôn giả, có hàng phi nhân hung bạo, dữ tợn, khủng khiếp. Chúng không nghe lời các Đại vương, không nghe lời đình thần của các vị Đại vương, không nghe lời các vị giúp việc cho các đình thần của các vị Đại vương. Này Tôn giả, các phi nhân này được xem là thù nghịch của các bậc Đại vương. Này Tôn giả, như các đại tướng cướp bị vua xứ Magadha chinh phục; cũng vậy, các vị này không nghe lời các vị Đại vương, không nghe lời đình thần của các vị Đại vương, không nghe lời các vị giúp việc cho các đình thần của các vị Đại vương. Này Tôn giả, các vị đại tướng cướp này được xem là kẻ thù nghịch của vua xứ Magadha. Cũng vậy, này Tôn giả, có những vị phi nhân hung bạo, dữ tợn, khủng khiếp. Các vị này không nghe lời các Đại vương, không nghe lời đình thần của các vị Đại vương, không nghe lời các vị giúp việc cho các đình thần các vị Đại vương. Này Tôn giả, các vị phi nhân này được xem là kẻ thù nghịch của các bậc Đại vương. Này Tôn giả, nếu có vị phi nhân nào, dạ-xoa hay dạ-xoa nữ nào... đi theo vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ hay nữ cư sĩ khi vị này đi, đứng gần khi vị này đứng, ngồi khi vị này ngồi, nằm khi vị này nằm với tâm niệm độc ác thì vị này hãy nói lên, kêu lên, hét lên với những vị dạ-xoa ấy, đại dạ-xoa ấy, quân sư, đại quân sư ấy: “Dạ-xoa này bắt tôi, dạ-xoa này nhập vào tôi, dạ-xoa này tấn công tôi, dạ-xoa này quấy nhiễu tôi, dạ-xoa này đả thương tôi, dạ-xoa này làm hại tôi, dạ-xoa này không thả tôi ra.”
283. Những dạ-xoa, đại dạ-xoa, quân sư, đại quân sư nào được kêu gọi ở đây:
Inda, Soma và Varuṇa,
Bhāradvāja, Pajāpati,
Candana, Kāmaseṭṭha,
Kinnughaṇḍu, Nighaṇḍu,
Panāda và Opamañña,
Devasūta và Mātali,
Cittasena và Gandhabba.
Vua Naḷa, Janesabha,
Sātāgira, Hemavata,
Puṇṇaka, Karatiya, Guḷa,
Sīvaka và Mucalinda,
Vessāmitta, Yugandhara,
Gopāla và Suppagedha,
Hirī, Nettī và Mandiya,
Pañcālacaṇḍa, Ᾱḷavaka,
Pajjunna, Sumana, Sumukha,
Dadhimukha, Maṇi, Mānicara, Dīgha,
Và sau là Serīsaka.
Những vị này là những dạ-xoa, đại dạ-xoa, quân sư, đại quân sư cần phải được nói lên, kêu lên, hét lên: “Dạ-xoa này bắt tôi, dạ-xoa này nhập vào tôi, dạ-xoa này tấn công tôi, dạ-xoa này quấy nhiễu tôi, dạ-xoa này đả thương tôi, dạ-xoa này làm hại tôi, dạ-xoa này không thả tôi ra.”
Này Tôn giả, đây là Ᾱṭānāṭiya Hộ kinh, che chở, hộ trì, ngăn cản, không cho ai làm hại các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ và khiến các vị này sống an lạc.
Thưa Tôn giả, nay chúng tôi cần phải đi, chúng tôi có nhiều việc, có nhiều bổn phận.
– Đại vương, Đại vương hãy làm điều gì Đại vương nghĩ là phải thời.
284. Rồi bốn vị Đại vương từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về phía Ngài rồi biến mất tại đấy.
Các vị dạ-xoa ấy, từ chỗ ngồi đứng dậy, có vị đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi biến mất tại chỗ; có vị nói lên những lời hỏi thăm xã giao với Thế Tôn rồi biến mất tại chỗ; có vị chắp tay hướng đến Thế Tôn rồi biến mất tại chỗ; có vị nói lên tên họ của mình rồi biến mất tại chỗ; có vị im lặng biến mất tại chỗ.
285. Rồi Thế Tôn, sau khi đêm đã mãn, liền gọi các vị Tỷ-kheo:
– Này các Tỷ-kheo, đêm nay, bốn vị Thiên Vương sau khi sắp đặt trấn giữ bốn đại quân yakkha, đại quân gandhabba, đại quân kumbhaṇḍa và đại quân nāga, án ngữ bốn phương, bảo trì bốn phương, trong đêm tối thâm sâu, với hào quang tuyệt diệu chói sáng toàn thể núi Linh Thứu, đến tại chỗ Ta; sau khi đến, đảnh lễ Ta và ngồi xuống một bên. Các vị dạ-xoa, có vị đảnh lễ Ta rồi ngồi xuống một bên; có vị nói lên những lời chúc tụng, hỏi thăm rồi ngồi xuống một bên; có vị nói lên tên họ rồi ngồi xuống một bên; có vị im lặng rồi ngồi xuống một bên.
286. Sau khi ngồi xuống một bên, Đại vương Vessavaṇa (Tỳ-sa-môn) bạch với Ta:
– Bạch Thế Tôn, có những thượng phẩm dạ-xoa không tin tưởng Thế Tôn; bạch Thế Tôn, có những thượng phẩm dạ-xoa tin tưởng Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, có những trung phẩm dạ-xoa không tin tưởng Thế Tôn; bạch Thế Tôn, có những trung phẩm dạ-xoa tin tưởng Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, có những hạ phẩm dạ-xoa không tin tưởng Thế Tôn; bạch Thế Tôn, có những hạ phẩm dạ-xoa tin tưởng Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, nhưng phần lớn các dạ-xoa không tin tưởng Thế Tôn. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn, Thế Tôn thuyết pháp để từ bỏ sát sanh, thuyết pháp để từ bỏ trộm cắp, thuyết pháp để từ bỏ tà dâm, thuyết pháp để từ bỏ nói láo, thuyết pháp để từ bỏ uống các loại rượu. Bạch Thế Tôn, tuy vậy, phần lớn các dạ-xoa đều không từ bỏ sát sanh, không từ bỏ trộm cắp, không từ bỏ tà dâm, không từ bỏ nói láo, không từ bỏ uống các loại rượu. Đối với họ, pháp ấy không được ưa thích, không được đón mừng. Bạch Thế Tôn, có những đệ tử của Thế Tôn sống trong chốn thâm sâu cùng cốc, ít tiếng, ít động, có gió mát từ ngoài đồng thổi, ẩn náu, không cho người thấy, thích hợp tịnh tu. Tại chỗ ấy, có những thượng phẩm dạ-xoa không tin tưởng lời dạy Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, hãy học Ᾱṭānāṭiya Hộ kinh để họ được lòng tin, để các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ có thể sống an lạc, được che chở, được hộ trì, không bị tai họa.
Ta im lặng chấp thuận.
Rồi Đại vương Vessavaṇa, biết được Ta đã chấp thuận, trong giờ phút ấy, đọc lên bài Ᾱṭānāṭiya Hộ kinh:
287. Đảnh lễ Vipassī (Tỳ-bà-thi)
Sáng suốt và huy hoàng!
Đảnh lễ đấng Sikhī (Thi-khí)
Có lòng thương muôn loài!
Đảnh lễ Vessabhū (Tỳ-xá-bà)
Thanh tịnh, tu khổ hạnh!
Đảnh lễ Kakusandha (Câu-lưu-tôn)
Vị nhiếp phục ma quân!
Đảnh lễ Koṇāgamana (Câu-na-hàm)
Bà-la-môn viên mãn!
Đảnh lễ Kassapa (Ca-diếp)
Vị giải thoát muôn mặt!
Đảnh lễ Aṅgīrasa
Vị Thích tử huy hoàng,
Đã thuyết Chơn diệu pháp,
Diệt trừ mọi khổ đau!
Ai yểm ly thế giới,
Nhìn đời đúng như chơn,
Vị ấy không hai lưỡi,
Bậc Vĩ Đại, Thanh Thoát.
Cùng đảnh lễ Gotama,
Lo an lạc nhơn, thiên
Trì giới đức viên mãn,
Bậc Vĩ Đại, Thanh Thoát!
288. Mặt trời sáng mọc lên,
Vầng thái dương tròn lớn,
Khi mặt trời mọc lên,
Đêm tối liền biến mất.
Khi mặt trời mọc lên,
Liền được gọi là ngày.
Biển cả hải triều động,
Như hồ nước thâm sâu.
Ở đấy mọi người biết,
Chính biển cả hải triều,
Dân chúng gọi phương ấy,
Là phương Purimā (phương Đông).
Vị trị vì phương ấy,
Bậc Đại vương danh xưng,
Chủ loài càn-thát-bà,
Danh gọi Dhataraṭṭha (Trì Quốc Thiên Vương).
Càn-thát-bà hầu quanh,
Hưởng múa hát của họ.
Vua này có nhiều con,
Ta nghe chỉ một tên,
Tám mươi và mười một,
Đại lực, danh Inda.
Họ chiêm ngưỡng Thế Tôn,
Bậc Dòng Họ Mặt Trời.
Từ xa họ lễ Phật,
Bậc Vĩ Đại, Thanh Thoát.
Đảnh lễ bậc Siêu Nhân!
Đảnh lễ bậc Thượng Nhân!
Thiện tâm nhìn chúng con,
Phi nhân cũng lễ Ngài.
Đã nhiều lần nghe hỏi,
Nên đảnh lễ như vậy:
Quý vị xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Chúng con xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Đảnh lễ Gotama,
Bậc Trí Đức Viên Mãn!
289. Họ được gọi Peta,
Nói hai lưỡi, sau lưng,
Sát sanh và tham đắm,
Đạo tặc và man trá,
Dân chúng gọi phương ấy,
Là phương Dakkhiṇā (phương Nam).
Vị trị vì phương ấy,
Bậc Đại vương, danh xưng,
Chủ loài kumbhaṇḍa
Danh gọi Virūḷha (Tỳ-lâu-lặc).
Kumbhaṇḍa hầu quanh,
Hưởng múa hát của họ.
Vua này có nhiều con,
Ta nghe chỉ một tên,
Tám mươi và mười một,
Đại lực, danh Inda.
Họ chiêm ngưỡng Thế Tôn,
Bậc Dòng Họ Mặt Trời.
Từ xa, họ lễ Phật,
Bậc Vĩ Đại, Thanh Thoát.
Đảnh lễ bậc Siêu Nhân!
Đảnh lễ bậc Thượng Nhân!
Thiện tâm nhìn chúng con
Phi nhân cũng lễ Ngài.
Đã nhiều lần, nghe hỏi,
Nên đảnh lễ như vậy:
Quý vị xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Chúng con xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Đảnh lễ Gotama,
Bậc Trí Đức Viên Mãn!
290. Mặt trời sáng lặn xuống,
Vầng thái dương tròn lớn.
Khi mặt trời lặn xuống,
Ban ngày liền biến mất.
Khi mặt trời lặn xuống,
Liền được gọi là đêm.
Biển cả hải triều động,
Như hồ nước thâm sâu,
Ở đấy mọi người biết,
Chính biển cả hải triều,
Dân chúng gọi phương ấy,
Là phương Pacchimā (phương Tây).
Vị trị vì phương ấy,
Bậc Đại vương, danh xưng,
Chủ các loài nāga,
Danh Virūpakkha (Tỳ-lâu-bác-xoa).
Loài nāga hầu quanh,
Hưởng múa hát của họ.
Vua này có nhiều con,
Ta nghe chỉ một tên,
Tám mươi và mười một,
Đại lực, danh Inda.
Họ chiêm ngưỡng Thế Tôn,
Bậc Dòng Họ Mặt Trời.
Từ xa, họ lễ Phật,
Bậc Vĩ Đại, Thanh Thoát:
Đảnh lễ bậc Siêu Nhân!
Đảnh lễ bậc Thượng Nhân!
Thiện tâm nhìn chúng con,
Phi nhân cũng lễ Ngài.
Đã nhiều lần nghe hỏi,
Nên đảnh lễ như vậy:
Quý vị xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Chúng con xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Đảnh lễ Gotama,
Bậc Trí Đức Viên Mãn!
291. Bắc Lô châu (Uttarakuru) an lạc,
Đại Neru (Tu-di) đẹp đẽ,
Tại đấy, mọi người sống,
Không sở hữu, chấp trước.
Họ không gieo hột giống,
Không cần phải kéo cày,
Loài người được thọ hưởng,
Lúa chín khỏi nhọc công.
Loại gạo không cám trấu,
Thanh tịnh có hương thơm,
Được nấu chín trên đá,
Và họ ăn gạo ấy.
Chỉ cưỡi loài bò cái,
Đi phương này phương khác.
Chỉ dùng các loài thú,
Đi phương này phương khác.
Dùng xe đàn bà kéo,
Đi phương này phương khác.
Dùng xe đàn ông kéo,
Đi phương này phương khác.
Dùng xe con gái kéo,
Đi phương này phương khác.
Dùng xe con trai kéo,
Đi phương này phương khác.
Họ lên trên các xe,
Đi khắp mọi phương hướng,
Để phục vụ vua mình.
Họ cưỡi xe voi kéo,
Xe ngựa, xe chư thiên,
Đối với vua danh xưng,
Có lâu đài, có kiệu,
Nhiều thành phố của vua,
Được xây giữa hư không.
Các thành Ᾱṭānāṭā, Kusināṭā,
Parakusināṭā, Nāṭapuriyā, Parakusiṭanāṭā,
Kapāvānta thuộc phía Bắc,
Và các thành phố khác,
Như Janogha, Navanavatiya,
Ambara, Ambaravatiya,
Ᾱḷakamandā,
Là kinh đô của vua,
Chỗ Kuvera ở.
Vị vua đáng kính này,
Kinh đô tên Visāṇā,
Do vậy Kuvera,
Được danh Vessavaṇa.
Các sứ quân được tên:
Tatolā, Tattalā, Tatotalā,
Ojasi, Tejasi, Tatojasi,
Vua Sūra, Ariṭṭha, Nemi.
Đây có vùng nước lớn,
Từ đây mưa đổ xuống,
Được tên Dharaṇī.
Nơi mùa mưa kéo dài,
Tại đây có giảng đường,
Tên Bhagalavati,
Chỗ dạ-xoa tập hội.
Tại đây nhiều cây trái,
Trên cây chim tụ họp,
Các loại công, loại cò,
Diệu âm chim Kokilā,
Ở đây, chim Jīva,
Kêu tiếng: “Hãy sống đi”,
Và tiếng chim kêu lên:
“Hãy khởi tâm thích thú”
Nhiều loại chim sai khác,
Ở rừng và ở hồ,
Với con vẹt ồn ào,
Và con chim Mynah,
Các loại chim thần thoại,
Gọi là Daṇḍamāṇavaka.
Hồ sen Kuvera,
Chiếu sáng tất cả trời,
Dân chúng gọi phương ấy,
Là phương Uttarā (phương Bắc).
Vị trị vì phương ấy,
Bậc Đại vương danh xưng,
Chủ các loài dạ-xoa,
Được gọi Kuvera.
Các dạ-xoa hầu quanh,
Hưởng múa hát của chúng.
Vua này có nhiều con,
Ta nghe chỉ một tên,
Tám mươi và mười một,
Đại lực, danh Inda.
Họ chiêm ngưỡng Thế Tôn,
Bậc Dòng Họ Mặt Trời.
Từ xa, họ lễ Phật,
Bậc Vĩ Đại, Thanh Thoát:
Đảnh lễ bậc Siêu Nhân!
Đảnh lễ bậc Thượng Nhân!
Thiện tâm nhìn chúng con,
Phi nhân cũng lễ Ngài.
Đã nhiều lần nghe hỏi,
Nên đảnh lễ như vậy:
Quý vị xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Chúng con xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Đảnh lễ Gotama,
Bậc Trí Đức Viên Mãn!
Tôn giả, Ᾱṭānāṭiya Hộ kinh này che chở, hộ trì, ngăn cản, không cho ai làm hại các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ và khiến các vị này sống an lạc.
292. Khi một vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ nào học Ᾱṭānāṭiya Hộ kinh này một cách chín chắn, rõ ràng, nếu có loài phi nhân nào như dạ-xoa, dạ-xoa nữ, con trai dạ-xoa, con gái dạ-xoa, đại thần của dạ-xoa, tùy tùng của dạ-xoa hay lao công của dạ-xoa; hoặc càn-thát-bà...; hoặc cưu-bàn-trà...; hoặc nāga... đi theo vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ khi vị này đi; đứng gần khi vị này đứng; ngồi khi vị này ngồi; nằm khi vị này nằm với tâm niệm độc ác, thời này Tôn giả, vị phi nhân ấy trong làng hay trong đô thị sẽ không được ai đón mừng hay kính trọng. Này Tôn giả, phi nhân ấy, trong kinh đô Āḷakamandā của ta sẽ không tìm được đất đai hay chỗ ở. Vị phi nhân ấy sẽ không được đi dự hội giữa các dạ-xoa. Này Tôn giả, vị phi nhân ấy sẽ không được cưới hỏi. Này Tôn giả, các hàng phi nhân sẽ dùng những lời nói hỗn láo xấc xược đối với vị ấy. Này Tôn giả, các hàng phi nhân sẽ dìm đầu vị ấy xuống. Này Tôn giả, các hàng phi nhân sẽ chẻ đầu vị ấy ra làm bảy mảnh.
Này Tôn giả, có hàng phi nhân hung bạo, dữ tợn, khủng khiếp. Chúng không nghe lời các Đại vương, không nghe lời đình thần của các vị Đại vương, không nghe lời các vị giúp việc cho các đình thần của các vị Đại vương. Này Tôn giả, các phi nhân này được xem là thù nghịch của các bậc Đại vương. Này Tôn giả, như các đại tướng cướp bị vua xứ Magadha chinh phục; cũng vậy, các vị này không nghe lời các vị Đại vương, không nghe lời đình thần của các vị Đại vương, không nghe lời các vị giúp việc cho các đình thần của các vị Đại vương. Này Tôn giả, các vị đại tướng cướp này được xem là kẻ thù nghịch của vua xứ Magadha. Cũng vậy, này Tôn giả, có những vị phi nhân hung bạo, dữ tợn, khủng khiếp. Các vị này không nghe lời các Đại vương, không nghe lời đình thần của các vị Đại vương, không nghe lời các vị giúp việc cho các đình thần các vị Đại vương. Này Tôn giả, các vị phi nhân này được xem là kẻ thù nghịch của các bậc Đại vương. Này Tôn giả, nếu có vị phi nhân nào, dạ-xoa hay dạ-xoa nữ nào... đi theo vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ hay nữ cư sĩ khi vị này đi, đứng gần khi vị này đứng, ngồi khi vị này ngồi, nằm khi vị này nằm với tâm niệm độc ác thì vị này hãy nói lên, kêu lên, hét lên với những vị dạ-xoa ấy, đại dạ-xoa ấy, quân sư, đại quân sư ấy: “Dạ-xoa này bắt tôi, dạ-xoa này nhập vào tôi, dạ-xoa này tấn công tôi, dạ-xoa này quấy nhiễu tôi, dạ-xoa này đả thương tôi, dạ-xoa này làm hại tôi, dạ-xoa này không thả tôi ra.”
293. Những dạ-xoa, đại dạ-xoa, quân sư, đại quân sư nào được kêu gọi ở đây:
Inda, Soma và Varuṇa,
Bhāradvāja, Pajāpati,
Candana, Kāmaseṭṭha,
Kinnughaṇḍu, Nighaṇḍu,
Panāda và Opamañña,
Devasūta và Mātali,
Cittasena và Gandhabba.
Vua Naḷa, Janesabha,
Sātāgira, Hemavata,
Puṇṇaka, Karatiya, Guḷa,
Sīvaka và Mucalinda,
Vessāmitta, Yugandhara,
Gopāla và Suppagedha,
Hirī, Nettī và Mandiya,
Pañcālacaṇḍa, Ᾱḷavaka,
Pajjunna, Sumana, Sumukha,
Dadhimukha, Maṇi, Mānicara, Dīgha,
Và sau là Serīsaka.
Những vị này là những dạ-xoa, đại dạ-xoa, quân sư, đại quân sư cần phải được nói lên, kêu lên, hét lên: “Dạ-xoa này bắt tôi, dạ-xoa này nhập vào tôi, dạ-xoa này tấn công tôi, dạ-xoa này quấy nhiễu tôi, dạ-xoa này đả thương tôi, dạ-xoa này làm hại tôi, dạ-xoa này không thả tôi ra.”
Này Tôn giả, đây là Ᾱṭānāṭiya Hộ kinh, che chở, hộ trì, ngăn cản, không cho ai làm hại các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ và khiến các vị này sống an lạc.
Thưa Tôn giả, nay chúng tôi cần phải đi, chúng tôi có nhiều việc, có nhiều bổn phận.
– Đại vương, Đại vương hãy làm điều gì Đại vương nghĩ là phải thời.
294. Rồi bốn vị Đại vương từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ Ta, thân bên hữu hướng về phía Ta rồi biến mất tại đấy.
Các vị dạ-xoa ấy, từ chỗ ngồi đứng dậy, có vị đảnh lễ Ta, thân phía hữu hướng về Ta rồi biến mất tại chỗ; có vị nói lên những lời hỏi thăm xã giao với Ta rồi biến mất tại chỗ; có vị chắp tay hướng đến Ta rồi biến mất tại chỗ; có vị nói lên tên họ của mình rồi biến mất tại chỗ; có vị im lặng biến mất tại chỗ.
295. Này các Tỷ-kheo, hãy học Ᾱṭānāṭiya Hộ kinh này, hãy thuộc lòng Ᾱṭānāṭiya Hộ kinh này, hãy thọ trì Ᾱṭānāṭiya Hộ kinh này. Các Tỷ-kheo, Ᾱṭānāṭiya Hộ kinh này rất hữu ích, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ sẽ được che chở, được hộ trì, được ngăn khỏi ai làm hại, được sống thoải mái hạnh phúc.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.