Tam tạng Thánh điển PGVN 01 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 01 »
Kinh Trường Bộ
HT Thích Minh Châu Dịch
Phật giáo nguyên thuỷ/Kinh Tạng Pali/Kinh Trường Bộ
406. Như vầy tôi nghe.
Một thời, Thế Tôn ở tại Sāvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ Viên), vườn Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ, du sĩ ngoại đạo Poṭṭhapāda (Bố-sá-bà-lâu) cùng với đại chúng du sĩ ngoại đạo khoảng ba trăm vị, ở tại vườn của Hoàng hậu Mallikā[2] (Mạt-lê viên) tên là Ekasālaka, có hàng rào cây tinduka, một hội trường luận bàn về chánh kiến, tà kiến. Lúc bấy giờ, Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát vào Sāvatthi khất thực.
407. Rồi Thế Tôn tự nghĩ: “Giờ này còn quá sớm để đi khất thực tại Sāvatthi, Ta hãy đi đến vườn của Hoàng hậu Mallikā tên là Ekasālaka, có hàng rào cây tinduka, một hội trường luận bàn về chánh kiến, tà kiến, để gặp du sĩ ngoại đạo Poṭṭhapāda.” Và Thế Tôn đi đến vườn của Hoàng hậu Mallikā tên là Ekasālaka, có hàng rào cây tinduka, một hội trường luận bàn về chánh kiến, tà kiến.
408. Lúc bấy giờ, du sĩ ngoại đạo Poṭṭhapāda ngồi với đại chúng du sĩ ngoại đạo, đang ồn ào, la lối, lớn tiếng bàn luận những vấn đề phù phiếm như câu chuyện về vua chúa, câu chuyện về ăn trộm, câu chuyện về đại thần, câu chuyện về binh lính, các câu chuyện về hãi hùng, câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về đồ ăn, câu chuyện về đồ uống, câu chuyện về đồ mặc, câu chuyện về giường nằm, câu chuyện về vòng hoa, câu chuyện về hương liệu, câu chuyện về bà con, câu chuyện về xe cộ, câu chuyện về làng xóm, câu chuyện về thị trấn, câu chuyện về thành phố, câu chuyện về quốc độ, câu chuyện về đàn bà, câu chuyện về vị anh hùng, câu chuyện bên lề đường, câu chuyện tại chỗ lấy nước, câu chuyện về người đã chết, các câu chuyện tạp thoại, câu chuyện về hiện trạng của thế giới và hiện trạng của đại dương, câu chuyện về sự hiện hữu và sự không hiện hữu.
409. Du sĩ ngoại đạo Poṭṭhapāda thấy Thế Tôn từ xa đến, liền khuyến cáo chúng của mình: “Các Tôn giả hãy nhỏ tiếng, các Tôn giả hãy đừng làm ồn! Nay Sa-môn Gotama đang đến, Ngài ưa mến sự trầm lặng, vị Ðại đức này tán thán sự trầm lặng. Nếu biết chúng này yên tịnh, Ngài có thể ghé đến đây.” Nghe nói vậy, các du sĩ ngoại đạo liền im lặng.
410. Rồi Thế Tôn đến du sĩ ngoại đạo Poṭṭhapāda, và du sĩ ngoại đạo Poṭṭhapāda bạch Thế Tôn:
– Thiện lai, Thế Tôn! Hoan nghênh Thế Tôn! Ðã lâu Thế Tôn không quá bộ đến đây, mời Thế Tôn ngồi, đây là chỗ ngồi đã soạn sẵn.
Thế Tôn ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Du sĩ ngoại đạo Poṭṭhapāda lấy một ghế thấp khác và ngồi xuống một bên. Rồi Thế Tôn nói với du sĩ Poṭṭhapāda đã ngồi một bên:
– Này Poṭṭhapāda, vấn đề gì các vị đang ngồi thảo luận? Vấn đề gì đang nói mà bị gián đoạn?
411. Khi nghe nói vậy, du sĩ ngoại đạo Poṭṭhapāda bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, hãy gác một bên câu chuyện chúng tôi đang ngồi bàn luận. Bạch Thế Tôn, lát nữa Thế Tôn nghe lại cũng không khó khăn gì. Bạch Thế Tôn, mấy ngày trước, nhiều vị Sa-môn, Bà-la-môn ngoại đạo tụ họp, ngồi hội thảo trong giảng đường nêu lên vấn đề sự diệt tận các tăng thượng tưởng.[3]
“Này Tôn giả, tăng thượng tưởng diệt tận như thế nào?” Một vài vị trả lời: “Không nhân, không duyên, các tưởng của con người sinh và diệt. Khi tưởng sanh, con người có tưởng; khi tưởng diệt, con người không có tưởng.” Như vậy, một vài vị giải thích sự diệt tận các tăng thượng tưởng.
Về vấn đề này, người khác lại nói như sau: “Các Tôn giả, sự kiện không phải như vậy. Này Tôn giả, tưởng là tự ngã của con người, chính tưởng ấy đến và đi. Khi tưởng ấy đến thì con người có tưởng, khi tưởng ấy đi thì con người không có tưởng.” Như vậy, một vài vị giải thích sự diệt tận các tăng thượng tưởng.
Về vấn đề này, người khác lại nói như sau: “Các Tôn giả, sự kiện không phải như vậy. Này Tôn giả, có những Sa-môn, Bà-la-môn có đại thần thông và đại oai lực. Chính những vị này khiến tưởng nhập vào trong người và cũng kéo tưởng ra ngoài người ấy. Khi các vị này khiến tưởng nhập vào trong người, người ấy có tưởng; khi kéo tưởng ra ngoài, người ấy không có tưởng.” Như vậy, một vài vị giải thích sự diệt tận các tăng thượng tưởng.
Về vấn đề này, người khác lại nói như sau: “Các Tôn giả, sự kiện không phải như vậy. Này Tôn giả, có những vị thiên thần có đại thần thông, có đại oai lực. Chính những vị này khiến tưởng nhập vào trong người và kéo tưởng ra ngoài người ấy. Khi các vị này khiến tưởng nhập vào trong người, người ấy có tưởng; khi kéo tưởng ra ngoài, người ấy không có tưởng.” Như vậy, một vài vị giải thích sự diệt tận các tăng thượng tưởng. Bạch Thế Tôn, lúc bấy giờ, con tưởng niệm đến Thế Tôn: “Mong Thế Tôn có mặt ở đây! Mong Thiện Thệ có mặt ở đây! Ngài rất tinh thông những pháp này. Chắc chắn Thế Tôn biết rõ sự diệt tận các tăng thượng tưởng.” Bạch Thế Tôn, sự diệt tận các tăng thượng tưởng như thế nào?
412. – Này Poṭṭhapāda, những Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: “Không nhân, không duyên, các tưởng của con người sinh và diệt”, những vị này đã sai lạc ngay từ ban đầu. Vì sao vậy? Này Poṭṭhapāda, chính vì có nhân, có duyên, các tưởng của con người sinh và diệt. Chính do sự tu tập, một loại tưởng sanh; chính do sự tu tập, một loại tưởng diệt.
413. Và Thế Tôn nói:
– Sự tu tập ấy là gì? Này Poṭṭhapāda, nay ở đời Như Lai xuất hiện, là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri... (như Kinh Sa-môn quả, đoạn 190-193, trừ đoạn kết của mỗi đoạn)… thân nghiệp, ngữ nghiệp thanh tịnh, mạng sống trong sạch, giới hạnh đầy đủ, hộ trì các căn, chánh niệm tỉnh giác và biết tri túc.
Này Poṭṭhapāda, thế nào là Tỷ-kheo giới hạnh đầy đủ? Ở đây, này Poṭṭhapāda, vị Tỷ-kheo từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật… (như Kinh Sa-môn quả, đoạn 194-212)… như dùng tà thuật để được yên ổn, để khỏi làm các điều đã hứa, để được che chở khi ở trong nhà bằng đất, để dương được thịnh, để làm người liệt dương, để tìm đất tốt làm nhà, để cầu phước cho nhà mới, cho lễ rửa miệng, lễ tắm, lễ hy sinh, làm cho mửa, làm cho xổ, bài tiết các nhơ bẩn về phía trên, bài tiết các nhơ bẩn về phía dưới, tẩy tịnh trong đầu, thoa dầu trong tai, nhỏ thuốc mắt, cho thuốc qua lỗ mũi, xức thuốc mắt, thoa dầu cho mắt, chữa bệnh cho mắt, làm thầy thuốc mổ xẻ, chữa bệnh cho con nít, cho thuốc uống bằng các loại rễ cây, ngăn ngừa công hiệu của thuốc; còn vị ấy thì tránh xa các tà mạng kể trên. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
Này Poṭṭhapāda, và như vậy, vị Tỷ-kheo ấy nhờ đầy đủ giới luật nên không thấy sợ hãi từ một chỗ nào về phương diện hộ trì giới luật. Này Poṭṭhapāda, như một người Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, đã hàng phục kẻ thù địch, không còn thấy sợ hãi từ chỗ nào nữa về phương diện thù địch; cũng vậy, này Poṭṭhapāda, vị Tỷ-kheo ấy nhờ đầy đủ giới luật nên không thấy sợ hãi từ một chỗ nào về phương diện hộ trì giới luật. Vị ấy nhờ đầy đủ giới luật cao quý này nên hưởng lạc thọ nội tâm thanh tịnh. Như vậy, này Poṭṭhapāda, là Tỷ-kheo đầy đủ giới luật.
Này Poṭṭhapāda, thế nào là Tỷ-kheo hộ trì các căn? Này Poṭṭhapāda, khi mắt thấy sắc, vị Tỷ-kheo không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến con mắt không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị Tỷ-kheo tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi mùi... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Vị ấy nhờ sự hộ trì cao quý các căn ấy nên hưởng lạc thọ nội tâm thanh tịnh. Như vậy, này Poṭṭhapāda, là Tỷ-kheo hộ trì các căn... (như Kinh Sa-môn quả, đoạn 213-223).
Khi quán tự thân đã xả ly năm triền cái ấy, hân hoan sanh; do hân hoan, nên hỷ sanh; do tâm hoan hỷ, thân được khinh an; do thân khinh an, lạc thọ sanh; do lạc thọ, tâm được định tĩnh. Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm với tứ. Dục tưởng trước kia của vị ấy được diệt trừ, và khi tưởng hỷ lạc vi tế chơn thật do ly dục sanh khởi lên, vị ấy có tưởng hỷ lạc vi tế chơn thật do ly dục sanh. Như vậy, do tu tập, một tưởng khởi lên; cũng do tu tập, một tưởng diệt trừ. Và Thế Tôn nói: “Ðó là sự tu tập Ta nói đến.”
Lại nữa, này Poṭṭhapāda, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Tưởng hỷ lạc vi tế chơn thật do ly dục sanh trước kia của vị ấy được diệt trừ, và khi tưởng hỷ lạc vi tế chơn thật do định sanh khởi lên, vị ấy có tưởng hỷ lạc vi tế chơn thật do định sanh. Như vậy, do tu tập, một tưởng khởi lên; cũng do tu tập, một tưởng diệt trừ. Và Thế Tôn nói: “Ðó là sự tu tập Ta nói đến.”
Lại nữa, này Poṭṭhapāda, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Tưởng hỷ lạc chơn thật vi tế do định sanh trước kia của vị ấy được diệt trừ, và khi tưởng xả lạc vi tế chơn thật khởi lên, vị ấy có tưởng xả lạc vi tế chơn thật. Như vậy, do tu tập, một tưởng khởi lên; cũng do tu tập, một tưởng diệt trừ. Và Thế Tôn nói: “Ðó là sự tu tập Ta nói đến.”
Lại nữa, này Poṭṭhapāda, Tỷ-kheo xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Như vậy, tưởng xả lạc chơn thật vi tế trước kia của vị ấy được diệt trừ, và khi tưởng xả lạc xả khổ vi tế chơn thật khởi lên, vị ấy có tưởng xả lạc xả khổ vi tế chơn thật. Như vậy, do tu tập, một tưởng khởi lên; cũng do tu tập, một tưởng diệt trừ. Và Thế Tôn nói: “Ðó là sự tu tập Ta nói đến.”
Lại nữa, này Poṭṭhapāda, với sự vượt thoát mọi sắc tưởng, với sự diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, với sự không tác ý đối với dị tưởng, Tỷ-kheo nghĩ rằng: “Hư không là vô biên”, chứng và trú Không vô biên xứ. Như vậy, sắc tưởng trước kia của vị ấy được diệt trừ, và khi tưởng Không vô biên xứ vi tế chơn thật khởi lên, vị ấy có tưởng Không vô biên xứ vi tế chơn thật. Như vậy, do sự tu tập, một tưởng khởi lên; cũng do tu tập, một tưởng diệt trừ. Và Thế Tôn nói: “Ðó là sự tu tập Ta nói đến.”
Lại nữa, này Poṭṭhapāda, với sự vượt thoát mọi Không vô biên xứ, Tỷ-kheo nghĩ rằng: “Thức là vô biên”, chứng và trú Thức vô biên xứ. Như vậy, tưởng Không vô biên xứ vi tế chơn thật trước kia của vị ấy được diệt trừ, và khi tưởng Thức vô biên xứ vi tế chơn thật khởi lên, vị ấy có tưởng Thức vô biên xứ vi tế chơn thật. Như vậy, do tu tập, một tưởng khởi lên; cũng do tu tập, một tưởng diệt trừ. Và Thế Tôn nói: “Ðó là sự tu tập Ta nói đến.”
Lại nữa, này Poṭṭhapāda, với sự vượt thoát mọi Thức vô biên xứ, Tỷ-kheo nghĩ rằng: “Không có vật gì”, chứng và trú Vô sở hữu xứ. Như vậy, tưởng Thức vô biên xứ vi tế chơn thật trước kia của vị ấy được diệt trừ, và khi tưởng Vô sở hữu xứ vi tế chơn thật khởi lên, vị ấy có tưởng Vô sở hữu xứ vi tế chơn thật. Như vậy, do tu tập, một tưởng khởi lên; cũng do tu tập, một tưởng diệt trừ. Và Thế Tôn nói: “Ðó là sự tu tập Ta nói đến.”
414. Lại nữa, này Poṭṭhapāda, khi Tỷ-kheo ở đây tự mình khởi tưởng, vị này tiếp tục đi từ tưởng này đến tưởng khác cho đến tưởng tột đỉnh. Và vị này khi đứng tại tưởng tột đỉnh, có thể nghĩ: “Tâm còn suy tưởng có hại cho ta, tâm không suy tưởng mới tốt cho ta. Nếu ta cứ tiếp tục suy tưởng, khi những tưởng này của ta diệt đi, các thô tưởng khác lại khởi lên, ta hãy đừng có suy tưởng.” Và vị này không có suy tưởng. Do không có suy tưởng, các tưởng kia diệt tận và các thô tưởng khác không khởi lên, vị ấy cảm thọ sự diệt tận. Như vậy, này Poṭṭhapāda, là sự chứng đạt trí tuệ diệt trừ dần dần các tăng thượng tưởng.
Này Poṭṭhapāda, ngươi nghĩ thế nào, trước đây ngươi đã nghe sự chứng đạt trí tuệ diệt trừ dần dần các tăng thượng tưởng này không?
– Bạch Thế Tôn, con không có nghe. Bạch Thế Tôn, nhưng nay con hiểu lời nói của Thế Tôn.
– Này Poṭṭhapāda, khi Tỷ-kheo ở đây tự mình khởi tưởng, vị này tiếp tục đi từ tưởng này đến tưởng khác cho đến tưởng tột đỉnh. Và vị này, khi đứng tại tưởng tột đỉnh, có thể nghĩ: “Tâm còn suy tưởng có hại cho ta, tâm không suy tưởng mới tốt cho ta. Nếu ta cứ tiếp tục suy tưởng, khi những tưởng này của ta diệt đi, các thô tưởng khác lại khởi lên, vậy ta hãy đừng có suy tưởng.” Và vị này không có suy tưởng. Do không có suy tưởng, các tưởng kia diệt tận và các thô tưởng khác cũng không khởi lên, vị ấy cảm thọ sự diệt tận. Như vậy, này Poṭṭhapāda, là sự chứng đạt trí tuệ diệt trừ dần dần các tăng thượng tưởng.
Như vậy là phải, này Poṭṭhapāda.
415. – Bạch Thế Tôn, Thế Tôn chỉ nói đến một tưởng tột đỉnh hay nhiều tưởng tột đỉnh?
– Này Poṭṭhapāda, Ta nói đến một tưởng tột đỉnh và cũng nói đến nhiều tưởng tột đỉnh.
– Bạch Thế Tôn, làm sao Thế Tôn nói đến một tưởng tột đỉnh và cũng nói đến nhiều tưởng tột đỉnh?
– Này Poṭṭhapāda, tùy theo vị ấy cảm thọ sự diệt tận [của một tưởng] sau tưởng khác, vị ấy đạt tới nhiều tưởng tột đỉnh sai khác, cái này tiếp theo cái kia cho đến tưởng tột đỉnh cuối cùng mà Ta nói đến nhiều tưởng tột đỉnh. Này Poṭṭhapāda, như vậy, Ta nói đến một tưởng tột đỉnh và cũng nói đến nhiều tưởng tột đỉnh.
416. – Bạch Thế Tôn, tưởng khởi trước, trí khởi sau; hay trí khởi trước, tưởng khởi sau; hay tưởng và trí cùng khởi một lần không trước không sau?
– Này Poṭṭhapāda, tưởng khởi trước, trí mới khởi sau, do tưởng sanh, trí mới sanh. Vị ấy tuệ tri: “Do duyên tưởng, trí sanh ra nơi ta.” Này Poṭṭhapāda, với lời dạy này, cần phải hiểu tưởng sanh trước, trí sanh sau; tưởng sanh trí mới sanh.
417. – Bạch Thế Tôn, tưởng có phải là tự ngã của con người hay tưởng khác, tự ngã khác?
– Này Poṭṭhapāda, ngươi hiểu tự ngã như thế nào?
– Bạch Thế Tôn, con hiểu tự ngã là thô phù, có sắc, do bốn đại hình thành và do đoàn thực nuôi dưỡng.
– Này Poṭṭhapāda, nếu tự ngã là thô phù, có sắc, do bốn đại hình thành và do đoàn thực nuôi dưỡng, như vậy, này Poṭṭhapāda, tưởng khác và tự ngã khác. Này Poṭṭhapāda, với sự nhận thức này, cần phải hiểu tưởng khác và tự ngã khác. Này Poṭṭhapāda, giả sử tự ngã ấy là thô phù, có sắc, do bốn đại hình thành và do đoàn thực nuôi dưỡng, tuy vậy một vài tưởng khác của người ấy khởi lên, một vài tưởng khác diệt mất. Này Poṭṭhapāda, với sự nhận thức này, cần phải hiểu tưởng khác, tự ngã khác.
418. – Bạch Thế Tôn, con hiểu tự ngã là do ý sở thành, đầy đủ mọi chi tiết lớn nhỏ, đầy đủ các căn.
– Này Poṭṭhapāda, nếu tự ngã là do ý sở thành, đầy đủ mọi chi tiết lớn nhỏ, đầy đủ các căn, như vậy, này Poṭṭhapāda, tưởng khác và tự ngã khác. Này Poṭṭhapāda, với sự nhận thức này, cần phải hiểu tưởng khác, tự ngã khác. Này Poṭṭhapāda, giả sử tự ngã ấy là do ý sở thành, đầy đủ mọi chi tiết lớn nhỏ, đầy đủ các căn, tuy vậy một vài tưởng khác của người ấy khởi lên, một vài tưởng khác diệt mất. Này Poṭṭhapāda, với sự nhận thức này, cần phải hiểu tưởng khác, tự ngã khác.
– Bạch Thế Tôn, con hiểu tự ngã là vô sắc, do tưởng sở thành.
419. – Này Poṭṭhapāda, nếu tự ngã là vô sắc, do tưởng sở thành, như vậy, này Poṭṭhapāda, tưởng khác và tự ngã khác. Này Poṭṭhapāda, với sự nhận thức này, cần phải hiểu tưởng khác, tự ngã khác. Này Poṭṭhapāda, giả sử tự ngã là vô sắc, do tưởng sở thành, tuy vậy một vài tưởng khác của người ấy khởi lên, một vài tưởng khác diệt mất. Này Poṭṭhapāda, với sự nhận thức này, cần phải hiểu tưởng khác, tự ngã khác.
420. – Bạch Thế Tôn, con có thể hiểu được chăng “tưởng là tự ngã của con người” hay “tưởng khác, tự ngã khác”?
– Này Poṭṭhapāda, thật khó cho ngươi biết được “tưởng là tự ngã của con người” hay “tưởng khác, tự ngã khác”, vì ngươi có dị kiến, có tin tưởng khác, có lý tưởng khác, có thiên tư khác, có hạnh nguyện khác.
– Bạch Thế Tôn, nếu thật khó cho con biết được “tưởng là tự ngã của con người” hay “tưởng khác, tự ngã khác”, vì con có dị kiến khác, có tin tưởng khác, có lý tưởng khác, có thiên tư khác, có hạnh nguyện khác; thời bạch Thế Tôn, thế giới có phải là thường còn, chỉ có quan niệm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội không?
– Này Poṭṭhapāda, Ta không trả lời: “Thế giới là thường còn, chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội.”
– Bạch Thế Tôn, có phải thế giới là vô thường, chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội không?
– Này Poṭṭhapāda, Ta không trả lời: “Thế giới là vô thường, chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội.”
– Bạch Thế Tôn, có phải thế giới là hữu biên, chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội không?
– Này Poṭṭhapāda, Ta không trả lời: “Thế giới là hữu biên, chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội.”
– Bạch Thế Tôn, có phải thế giới là vô biên, chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội không?
– Này Poṭṭhapāda, Ta không trả lời: “Thế giới là vô biên, chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội.”
– Bạch Thế Tôn, có phải sinh mạng và thân thể là một, chỉ có quan điểm này là đúng sự thật, ngoài ra là mê muội không?
– Này Poṭṭhapāda, Ta không trả lời: “Thân thể và sinh mạng là một, chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội.”
– Bạch Thế Tôn, có phải sinh mạng khác, thân thể khác, chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội không?
– Này Poṭṭhapāda, Ta không trả lời: “Sinh mạng khác, thân thể khác, chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội.”
– Bạch Thế Tôn, có phải Như Lai tồn tại sau khi chết, chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội không?
– Này Poṭṭhapāda, Ta không trả lời: “Như Lai tồn tại sau khi chết, chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội.”
– Bạch Thế Tôn, có phải Như Lai không tồn tại sau khi chết, chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội không?
– Này Poṭṭhapāda, Ta không trả lời: “Như Lai không tồn tại sau khi chết, chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội.”
– Bạch Thế Tôn, có phải Như Lai tồn tại và không tồn tại sau khi chết, chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội không?
– Này Poṭṭhapāda, Ta không trả lời: “Như Lai tồn tại và không tồn tại sau khi chết, chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội.”
– Bạch Thế Tôn, có phải Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết, chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội không?
– Này Poṭṭhapāda, Ta không trả lời: “Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết, chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội.”
– Bạch Thế Tôn, vì sao Thế Tôn không trả lời?
– Này Poṭṭhapāda, những câu hỏi này không thuộc về mục đích giải thoát, không thuộc về pháp, không thuộc căn bản của Phạm hạnh, không đưa đến yểm ly, đến ly tham, đến tịch diệt, đến tịch tịnh, đến thắng trí, đến giác ngộ, đến Niết-bàn, vì vậy Ta không trả lời.
– Bạch Thế Tôn, vậy Thế Tôn trả lời những gì?
– Này Poṭṭhapāda, Ta trả lời: “Ðây là khổ.” Ta trả lời: “Ðây là khổ tập.” Ta trả lời: “Ðây là khổ diệt.” Ta trả lời: “Ðây là con đường đưa đến khổ diệt.”[4]
– Bạch Thế Tôn, vì sao Thế Tôn trả lời?
– Này Poṭṭhapāda, những câu hỏi này thuộc về mục đích giải thoát, thuộc về pháp, thuộc căn bản của Phạm hạnh, đưa đến yểm ly, đến ly tham, đến tịch diệt, đến tịch tịnh, đến thắng trí, đến giác ngộ, đến Niết-bàn, vì vậy Ta trả lời.
– Bạch Thế Tôn, như vậy là phải. Bạch Thiện Thệ, như vậy là phải. Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời Ngài hãy làm gì Ngài xem là phải làm!
Và Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.
421. Thế Tôn rời khỏi chưa bao lâu, những du sĩ ngoại đạo ấy liền bao vây xung quanh du sĩ ngoại đạo Poṭṭhapāda và tuôn ra những lời nói mỉa mai gay gắt:[5] “Poṭṭhapāda này là như vậy, những gì Sa-môn Gotama nói đều được Poṭṭhapāda tán thành: ‘Bạch Thế Tôn, như vậy là phải. Bạch Thiện Thệ, như vậy là phải.’ Chúng tôi không được biết Sa-môn Gotama đã thuyết trình dứt khoát những vấn đề sau đây: ‘Thế giới là thường còn’ hay ‘Thế giới là vô thường’; ‘Thế giới là hữu biên’ hay ‘Thế giới là vô biên’; ‘Sinh mạng và thân thể là một’ hay ‘Sinh mạng khác, thân thể khác’; ‘Như Lai có tồn tại sau khi chết’ hay ‘Như Lai không tồn tại sau khi chết’; ‘Như Lai tồn tại và cũng không tồn tại sau khi chết’ hay ‘Như Lai không tồn tại và cũng không không tồn tại sau khi chết.’”
Khi bị nói vậy, du sĩ ngoại đạo Poṭṭhapāda nói với các du sĩ ngoại đạo kia:
– Này các Tôn giả, tôi cũng không được biết Sa-môn Gotama đã thuyết trình dứt khoát những vấn đề sau đây: “Thế giới là thường còn” hay “Thế giới là vô thường”; “Thế giới là hữu biên” hay “Thế giới là vô biên”; “Sinh mạng và thân thể là một” hay “Sinh mạng khác, thân thể khác”; “Như Lai có tồn tại sau khi chết” hay “Như Lai không có tồn tại sau khi chết”; “Như Lai có tồn tại và cũng không tồn tại sau khi chết” hay “Như Lai không tồn tại và cũng không không tồn tại sau khi chết.” Sa-môn Gotama đã tuyên bố một phương pháp như thực, chơn chánh, chơn thật, dùng pháp làm cơ bản, dùng pháp làm quy tắc. Và khi một vị tuyên bố một phương pháp như thực, chơn chánh, chơn thật, dùng pháp làm cơ bản, dùng pháp làm quy tắc thì làm sao một người hiểu biết như tôi lại không tán thành thiện ngôn khéo thuyết của Sa-môn Gotama!
422. Hai ba ngày sau, Citta Hatthisāriputta và du sĩ ngoại đạo Poṭṭhapāda đi đến chỗ Thế Tôn. Khi đi đến nơi, Citta Hatthisāriputta đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên, còn du sĩ ngoại đạo Poṭṭhapāda nói những lời chào đón, hỏi thăm xã giao với Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi một bên, du sĩ ngoại đạo Poṭṭhapāda bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, khi Thế Tôn rời khỏi chưa bao lâu, những du sĩ ngoại đạo liền bao vây xung quanh con và tuôn ra những lời nói mỉa mai gay gắt: “Poṭṭhapāda này là như vậy, những gì Sa-môn Gotama nói đều được Poṭṭhapāda tán thành: ‘Bạch Thế Tôn, như vậy là phải. Bạch Thiện Thệ, như vậy là phải.’ Chúng tôi không được biết Sa-môn Gotama đã thuyết trình dứt khoát những vấn đề sau đây: ‘Thế giới là thường còn’ hay ‘Thế giới là vô thường’; ‘Thế giới là hữu biên’ hay ‘Thế giới là vô biên’; ‘Sinh mạng và thân thể là một’ hay ‘Sinh mạng khác, thân thể khác’; ‘Như Lai có tồn tại sau khi chết’ hay ‘Như Lai không tồn tại sau khi chết’; ‘Như Lai có tồn tại và cũng không tồn tại sau khi chết’ hay ‘Như Lai không tồn tại và cũng không không tồn tại sau khi chết.’” Khi được nói vậy, con nói với các du sĩ ngoại đạo kia: “Này các Tôn giả, tôi cũng không được biết Sa-môn Gotama đã thuyết trình dứt khoát những vấn đề sau đây: ‘Thế giới là thường còn’ hay ‘Thế giới là vô thường’; ‘Thế giới là hữu biên’ hay ‘Thế giới là vô biên’; ‘Sinh mạng và thân thể là một’ hay ‘Sinh mạng khác, thân thể khác’; ‘Như Lai có tồn tại sau khi chết’ hay ‘Như Lai không tồn tại sau khi chết’; ‘Như Lai có tồn tại và cũng không tồn tại sau khi chết’ hay ‘Như Lai không tồn tại và cũng không không tồn tại sau khi chết.’ Sa-môn Gotama đã tuyên bố một phương pháp như thực, chơn chánh, chơn thật, dùng pháp làm cơ bản, dùng pháp làm quy tắc. Và khi một vị đã tuyên bố một phương pháp như thực, chơn chánh, chơn thật, dùng pháp làm cơ bản, dùng pháp làm quy tắc thì làm sao một người hiểu biết như tôi lại có thể không tán thành thiện ngôn khéo thuyết của Sa-môn Gotama!”
423. – Này Poṭṭhapāda, những vị du sĩ ngoại đạo ấy là mù không có mắt, chỉ có ngươi là người có mắt độc nhất giữa chúng. Này Poṭṭhapāda, có những pháp được Ta tuyên thuyết, trình bày một cách không dứt khoát. Này Poṭṭhapāda, có những pháp được Ta tuyên thuyết trình bày một cách dứt khoát. Này Poṭṭhapāda, những pháp gì được Ta tuyên thuyết, trình bày một cách không dứt khoát? “Thế giới là thường còn”, này Poṭṭhapāda, đó là pháp được Ta tuyên thuyết, trình bày một cách không dứt khoát. “Thế giới là vô thường”, này Poṭṭhapāda, đó là pháp được Ta tuyên thuyết, trình bày một cách không dứt khoát. “Thế giới là hữu biên”, này Poṭṭhapāda... “Thế giới là vô biên”, này Poṭṭhapāda... “Sinh mạng và thân thể là một”, này Poṭṭhapāda... “Sinh mạng khác, thân thể khác”, này Poṭṭhapāda... “Như Lai có tồn tại sau khi chết”, này Poṭṭhapāda... “Như Lai không có tồn tại sau khi chết”, này Poṭṭhapāda... “Như Lai có tồn tại và cũng không có tồn tại sau khi chết”, này Poṭṭhapāda... “Như Lai không tồn tại và cũng không không tồn tại sau khi chết”, này Poṭṭhapāda, đó là pháp được Ta tuyên thuyết, trình bày một cách không dứt khoát.
Này Poṭṭhapāda, vì sao những pháp ấy lại được Ta tuyên thuyết, trình bày một cách không dứt khoát? Này Poṭṭhapāda, những pháp này không thuộc về mục đích giải thoát, không thuộc về pháp, không thuộc căn bản Phạm hạnh, không đưa đến yểm ly, đến ly dục, đến tịch diệt, đến tịch tịnh, đến thắng trí, đến giác ngộ, đến Niết-bàn. Vì vậy, những pháp ấy được Ta tuyên thuyết, trình bày một cách không dứt khoát.
424. Này Poṭṭhapāda, những pháp gì được Ta tuyên thuyết, trình bày một cách dứt khoát? “Ðây là khổ”, này Poṭṭhapāda, đó là pháp được Ta tuyên thuyết, trình bày một cách dứt khoát. “Ðây là khổ tập”, này Poṭṭhapāda, đó là pháp được Ta tuyên thuyết, trình bày một cách dứt khoát. “Ðây là khổ diệt”, này Poṭṭhapāda, đó là pháp được Ta tuyên thuyết, trình bày một cách dứt khoát. “Ðây là con đường đưa đến khổ diệt”, này Poṭṭhapāda, đó là pháp được Ta tuyên thuyết, trình bày một cách dứt khoát.
Này Poṭṭhapāda, vì sao những pháp ấy được Ta tuyên thuyết, trình bày một cách dứt khoát? Này Poṭṭhapāda, những pháp ấy thuộc về mục đích giải thoát, thuộc về pháp, thuộc căn bản Phạm hạnh, đưa đến yểm ly, đến ly dục, đến tịch diệt, đến tịch tịnh, đến thắng trí, đến giác ngộ, đến Niết-bàn. Vì vậy, những pháp ấy được Ta tuyên thuyết, trình bày một cách dứt khoát.
425. Này Poṭṭhapāda, có một số Sa-môn, Bà-la-môn có chủ trương như thế này, có chủ kiến như thế này: “Sau khi chết, tự ngã hoàn toàn hạnh phúc, vô bệnh.” Ta đến những vị ấy và hỏi: “Có phải quý Ðại đức có chủ trương như thế này, có chủ kiến như thế này: ‘Sau khi chết, tự ngã hoàn toàn hạnh phúc, vô bệnh?’” Khi được Ta hỏi như vậy, những vị ấy công nhận là “phải”. Ta nói: “Vậy chư Ðại đức có sống và đã biết, đã thấy thế giới này là hoàn toàn hạnh phúc không?” Khi được hỏi vậy, các vị ấy trả lời là “không”. Ta nói với các vị ấy: “Vậy chư Ðại đức có tự thân cảm biết hoàn toàn hạnh phúc trong một đêm hay trong một ngày, trong nửa đêm hay trong nửa ngày không?” Khi được hỏi vậy, các vị ấy trả lời là “không”. Ta nói với các vị ấy: “Chư Ðại đức có biết một con đường nào, một phương pháp nào có thể đưa đến sự chứng ngộ một thế giới hoàn toàn hạnh phúc không?” Khi được hỏi vậy, các vị ấy trả lời là “không”. Ta nói với các vị ấy: “Vậy chư Ðại đức có nghe tiếng nói của chư thiên, đã được sinh vào một thế giới hoàn toàn hạnh phúc, nói: ‘Này các vị, hãy khéo thực hành! Này các vị, hãy thực hành ngay để có thể thực chứng một thế giới hoàn toàn hạnh phúc! Này các vị, chúng tôi đã thực hành, đã sanh vào một thế giới hoàn toàn hạnh phúc’ không?” Khi được hỏi vậy, các vị ấy trả lời là “không”. Này Poṭṭhapāda, ngươi nghĩ thế nào, sự kiện là như vậy, thời có phải lời nói của những Sa-môn, Bà-la-môn kia là không chính xác, vô lý?
– Vâng phải, bạch Thế Tôn. Sự kiện là như vậy, thời lời nói của những người kia là không chính xác, vô lý.
426. Như có một người nói: “Tôi yêu và ái luyến một cô gái đẹp trong nước này.” Có người hỏi: “Này bạn, cô gái đẹp ông yêu và ái luyến ấy, ông có biết là người giai cấp nào, là Sát-đế-lỵ, hay Bà-la-môn, hay Phệ-xá, hay Thủ-đà?” Khi được hỏi vậy, người ấy trả lời là không biết. Có người hỏi: “Này bạn, cô gái đẹp ông yêu và ái luyến ấy, ông có biết tên hay dòng họ gì, lớn người, thấp người hay người bậc trung? Da đen sẫm, da ngăm ngăm đen hay da vàng? Ở tại làng nào, thị trấn hay thành phố nào?” Khi được hỏi vậy, người ấy trả lời là không biết. Có người hỏi: “Này bạn, như vậy có phải ông đã yêu và ái luyến một người ông không biết, ông không thấy?” Ðược hỏi vậy, vị ấy trả lời là phải. Này Poṭṭhapāda, ngươi nghĩ thế nào, sự kiện là như vậy, thời có phải lời nói của người kia là không chính xác, vô lý?
– Vâng phải, bạch Thế Tôn. Sự kiện là như vậy, thời lời nói của người kia là không chính xác, vô lý.
– Như vậy, này Poṭṭhapāda, những Sa-môn, Bà-la-môn có chủ trương như thế này, có chủ kiến như thế này: “Sau khi chết, tự ngã hoàn toàn hạnh phúc, vô bệnh.” Ta đến những vị ấy và hỏi: “Có phải quý Ðại đức có chủ trương như thế này, có chủ kiến như thế này: ‘Sau khi chết, tự ngã hoàn toàn hạnh phúc, vô bệnh?’” Khi được hỏi như vậy, những vị ấy công nhận là “phải”. Ta nói: “Chư Ðại đức có sống và đã biết, đã thấy thế giới này là hoàn toàn hạnh phúc không?” Khi được hỏi vậy, các vị ấy trả lời là “không”. Ta nói với các vị ấy: “Vậy chư Ðại đức có tự thân cảm biết hoàn toàn hạnh phúc trong một đêm hay trong một ngày, trong nửa đêm hay trong nửa ngày không?” Khi được hỏi vậy, các vị ấy trả lời là “không”. Ta nói với các vị ấy: “Chư Ðại đức có biết một con đường nào, một phương pháp nào đưa đến sự chứng ngộ một thế giới hoàn toàn hạnh phúc không?” Khi được hỏi vậy, các vị ấy trả lời là “không”. Ta nói với các vị ấy: “Chư Ðại đức có nghe tiếng nói của chư thiên, đã được sinh vào một thế giới hoàn toàn hạnh phúc, nói: ‘Này các vị, hãy khéo thực hành! Này các vị, hãy thực hành ngay để có thể thực chứng một thế giới hoàn toàn hạnh phúc! Này các vị, chúng tôi đã thực hành, đã sanh vào một thế giới hoàn toàn hạnh phúc’ không?” Khi được hỏi vậy, các vị ấy trả lời là “không”. Này Poṭṭhapāda, ngươi nghĩ thế nào, sự kiện là như vậy, thời có phải lời nói của những Sa-môn, Bà-la-môn kia là không chính xác, vô lý?
– Vâng phải, bạch Thế Tôn. Sự kiện là như vậy, thời lời nói của những người kia là không chính xác, vô lý.
427. – Này Poṭṭhapāda, như một người muốn xây tại ngã tư đường một cái thang để leo lên lầu. Có người hỏi: “Này bạn, ông muốn xây một cái thang để leo lên lầu, vậy ông có biết lầu ấy là về hướng Đông, hay về hướng Tây, hay về hướng Bắc, hay về hướng Nam? Nhà lầu ấy cao hay thấp, hay trung bình?” Ðược hỏi vậy, vị ấy trả lời là không biết. Có người hỏi: “Này bạn, như vậy có phải ông xây một cái thang để leo lên một cái lầu mà ông không biết, không thấy?” Ðược hỏi vậy, vị ấy trả lời là phải. Này Poṭṭhapāda, ngươi nghĩ thế nào, sự kiện là như vậy, thời có phải lời nói của người kia là không chính xác, vô lý?
– Vâng phải, bạch Thế Tôn. Sự kiện là như vậy, thời lời nói của người kia là không chính xác, vô lý.
– Như vậy, này Poṭṭhapāda, những Sa-môn, Bà-la-môn có chủ trương như thế này, có chủ kiến như thế này: “Sau khi chết, tự ngã hoàn toàn hạnh phúc, vô bệnh.” Ta đến những vị ấy và hỏi: “Có phải quý Ðại đức có chủ trương như thế này, có chủ kiến như thế này: ‘Sau khi chết, tự ngã hoàn toàn hạnh phúc, vô bệnh?’” Khi được hỏi vậy, những vị ấy công nhận là phải. Ta nói: “Chư Ðại đức có sống và đã biết, đã thấy thế giới này là hoàn toàn hạnh phúc không?” Khi được hỏi vậy, các vị ấy trả lời là không. Ta nói với các vị ấy: “Vậy chư Ðại đức có tự tâm cảm biết hoàn toàn hạnh phúc trong một đêm hay trong một ngày, trong nửa đêm hay trong nửa ngày không?” Khi được hỏi vậy, các vị ấy trả lời là không. Ta nói với các vị ấy: “Chư Ðại đức có biết một con đường nào, một phương pháp nào có thể đưa đến sự chứng ngộ một thế giới hoàn toàn hạnh phúc không?” Khi được hỏi vậy, các vị ấy trả lời là không. Ta nói với các vị ấy: “Chư Ðại đức có nghe tiếng nói của chư thiên, đã được sinh vào một thế giới hoàn toàn hạnh phúc, nói: ‘Này các vị, hãy cố gắng thực hành! Này các vị, hãy thực chứng một thế giới hoàn toàn hạnh phúc. Này các vị, chúng tôi đã thực hành, đã sanh vào một thế giới hoàn toàn hạnh phúc’ không?” Khi được hỏi vậy, các vị ấy trả lời là không. Này Poṭṭhapāda, ngươi nghĩ như thế nào, sự kiện là như vậy, thời có phải lời nói của những Sa-môn, Bà-la-môn kia là không chính xác, vô lý.
– Vâng phải, bạch Thế Tôn. Sự kiện là như vậy, thời lời nói của những người kia không chính xác, vô lý.
428. – Này Poṭṭhapāda, có ba loại ngã chấp: Thô phù ngã chấp, ý sở thành ngã chấp, vô sắc ngã chấp. Này Poṭṭhapāda, thế nào là thô phù ngã chấp? Có sắc, do bốn đại hình thành, do đoàn thực nuôi dưỡng là thô phù ngã chấp. Thế nào ý sở thành ngã chấp? Có sắc, do ý sở thành, đầy đủ chi tiết lớn nhỏ, các căn đầy đủ, là ý sở thành ngã chấp. Thế nào là vô sắc ngã chấp? Không có sắc, do tưởng sở thành là vô sắc ngã chấp.
429. Này Poṭṭhapāda, Ta thuyết pháp để diệt trừ thô phù ngã chấp. Nếu các ngươi thực hành theo pháp này thời nhiễm pháp được diệt trừ, tịnh pháp được tăng trưởng, và ngay hiện tại, tự mình giác ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú trí tuệ sung mãn, quảng đại. Này Poṭṭhapāda, rất có thể các ngươi nghĩ: “Các nhiễm pháp sẽ diệt trừ, các tịnh pháp sẽ tăng trưởng, và ngay hiện tại tự mình giác ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú trí tuệ sung mãn, quảng đại, tuy vậy đau khổ vẫn tồn tại.” Này Poṭṭhapāda, chớ có nghĩ như vậy! Khi nhiễm pháp được diệt trừ, tịnh pháp được tăng trưởng, ngay hiện tại tự mình giác ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú trí tuệ sung mãn, quảng đại, thời hân hoan sanh, hoan hỷ, khinh an, chánh niệm tỉnh giác và lạc trú sanh.
430. Này Poṭṭhapāda, Ta thuyết pháp cũng để diệt trừ ý sở thành ngã chấp. Nếu các ngươi thực hành theo pháp này thời nhiễm pháp được diệt trừ, tịnh pháp được tăng trưởng, và ngay hiện tại, tự mình giác ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú trí tuệ sung mãn, quảng đại. Này Poṭṭhapāda, rất có thể các ngươi nghĩ: “Các nhiễm pháp sẽ diệt trừ, các tịnh pháp sẽ tăng trưởng, và ngay hiện tại tự mình giác ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú trí tuệ sung mãn, quảng đại, tuy vậy đau khổ vẫn tồn tại.” Này Poṭṭhapāda, chớ có nghĩ như vậy! Khi nhiễm pháp được diệt trừ, tịnh pháp được tăng trưởng, và ngay hiện tại tự mình giác ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú trí tuệ sung mãn, quảng đại, thời hân hoan sanh, hoan hỷ, khinh an, chánh niệm tỉnh giác và lạc trú sanh.
431. Này Poṭṭhapāda, Ta thuyết pháp cũng để diệt trừ vô sắc ngã chấp. Nếu các ngươi thực hành theo pháp này thời nhiễm pháp được diệt trừ, tịnh pháp được tăng trưởng, và ngay hiện tại tự mình giác ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú trí tuệ sung mãn, quảng đại. Này Poṭṭhapāda, rất có thể các ngươi nghĩ: “Các nhiễm pháp sẽ diệt trừ, các tịnh pháp sẽ tăng trưởng, ngay hiện tại tự mình giác ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú trí tuệ sung mãn, quảng đại, tuy vậy đau khổ vẫn tồn tại.” Này Poṭṭhapāda, chớ có nghĩ như vậy. Khi nhiễm pháp được diệt trừ, tịnh pháp được tăng trưởng, ngay hiện tại tự mình giác ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú trí tuệ sung mãn, quảng đại, thời hân hoan sanh, hoan hỷ, khinh an, chánh niệm tỉnh giác và lạc trú sanh.
432. Này Poṭṭhapāda, có những người ngoài hỏi chúng tôi: “Này Hiền giả, thô phù ngã chấp ấy là gì mà Hiền giả thuyết pháp để diệt trừ, khiến các người thực hành theo pháp này thời nhiễm pháp được diệt trừ, tịnh pháp được tăng trưởng, và ngay hiện tại tự mình giác ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú trí tuệ sung mãn, quảng đại?”
Khi được họ hỏi như vậy, chúng tôi trả lời: “Này Hiền giả, chính thô phù ngã chấp ấy, chúng tôi thuyết pháp để diệt trừ, khiến các người thực hành theo pháp này thời nhiễm pháp được diệt trừ, tịnh pháp được tăng trưởng và ngay hiện tại tự mình giác ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú trí tuệ sung mãn, quảng đại.”
433. Này Poṭṭhapāda, có những người ngoài hỏi: “Này Hiền giả, ý sở thành ngã chấp ấy là gì mà Hiền giả thuyết pháp để diệt trừ, khiến các người thực hành theo pháp này thời nhiễm pháp được diệt trừ, tịnh pháp được tăng trưởng và ngay hiện tại tự mình giác ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú trí tuệ sung mãn, quảng đại?”
Khi được hỏi vậy, chúng tôi trả lời: “Này Hiền giả, chính ý sở thành ngã chấp ấy chúng tôi thuyết pháp để diệt trừ, khiến các người thực hành theo pháp này thời nhiễm pháp được diệt trừ, tịnh pháp được tăng trưởng, và ngay hiện tại tự mình giác ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú trí tuệ sung mãn, quảng đại.”
434. Này Poṭṭhapāda, có những người ngoài hỏi chúng tôi: “Này Hiền giả, vô sắc ngã chấp ấy là gì mà Hiền giả thuyết pháp để diệt trừ, khiến các người thực hành theo pháp này thời nhiễm pháp được diệt trừ, tịnh pháp được tăng trưởng, và ngay hiện tại tự mình giác ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú trí tuệ sung mãn, quảng đại?”
Khi được hỏi vậy, chúng tôi trả lời: “Này Hiền giả, chính vô sắc ngã chấp ấy, chúng tôi thuyết pháp để diệt trừ, khiến các người thực hành theo pháp này thời nhiễm pháp được diệt trừ, tịnh pháp được tăng trưởng, và ngay hiện tại tự mình giác ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú trí tuệ sung mãn, quảng đại.”
Này Poṭṭhapāda, ngươi nghĩ thế nào, sự kiện là như vậy, thời có phải lời nói ấy là chính xác, hợp lý?
– Vâng phải, bạch Thế Tôn. Sự kiện là như vậy, thời lời nói ấy là chính xác, hợp lý.
435. Này Poṭṭhapāda, ví như một người xây một cái thang để leo lên lầu từ dưới chân lầu ấy. Người ấy được hỏi: “Này bạn, ông xây cái thang để leo lên lầu, vậy ông có biết cái lầu ấy về hướng Đông hay hướng Nam, hay hướng Tây, hay hướng Bắc? Nhà lầu ấy cao, hay thấp, hay trung bình?” Nếu người ấy trả lời: “Này Hiền giả, cái lầu mà tôi xây thang để leo lên chính tại dưới chân lầu này.” Này Poṭṭhapāda, ngươi nghĩ thế nào, sự kiện là như vậy, thời có phải lời nói ấy là chính xác, hợp lý chăng?
– Vâng phải, bạch Thế Tôn. Sự kiện là như vậy, thời lời nói của người kia là chính xác, hợp lý.
436. – Như vậy, này Poṭṭhapāda, có những người ngoài hỏi Ta: “Này Hiền giả, thô phù ngã chấp là gì?... Này Hiền giả, ý sở thành ngã chấp là gì?... Này Hiền giả, vô sắc ngã chấp ấy là gì mà Hiền giả thuyết pháp để diệt trừ, khiến các người thực hành theo pháp này thời nhiễm pháp được diệt trừ, tịnh pháp được tăng trưởng, và ngay hiện tại tự mình giác ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú trí tuệ sung mãn, quảng đại?” Khi được hỏi vậy, Ta trả lời: “Này Hiền giả, chính vô sắc ngã chấp ấy mà Ta thuyết pháp để diệt trừ, khiến các người thực hành theo pháp này thời nhiễm pháp được diệt trừ, tịnh pháp được tăng trưởng, và ngay hiện tại tự mình giác ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú trí tuệ sung mãn, quảng đại.” Này Poṭṭhapāda, ngươi nghĩ thế nào, sự kiện là như vậy, thời có phải lời nói ấy là chính xác, hợp lý?
– Vâng phải, bạch Thế Tôn. Sự kiện là như vậy, thời lời nói của Thế Tôn là chính xác, hợp lý.
437. Khi nghe nói vậy, Citta Hatthisāriputta bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, trong khi có thô phù ngã chấp, phải chăng không có ý sở thành ngã chấp, không có vô sắc ngã chấp? Thô phù ngã chấp khi ấy thật có tồn tại? Bạch Thế Tôn, trong khi có ý sở thành ngã chấp, phải chăng không có thô phù ngã chấp, không có vô sắc ngã chấp? Ý sở thành ngã chấp khi ấy thật có tồn tại? Bạch Thế Tôn, trong khi có vô sắc ngã chấp, phải chăng không có thô phù ngã chấp, không có ý sở thành ngã chấp? Vô sắc ngã chấp khi ấy thật có tồn tại?
– Này Citta, trong khi có thô phù ngã chấp, thời ngã chấp ấy không thuộc ý sở thành ngã chấp, không thuộc vô sắc ngã chấp, chính khi ấy thuộc thô phù ngã chấp. Này Citta, trong khi có ý sở thành ngã chấp, thời ngã chấp ấy không thuộc thô phù ngã chấp, không thuộc vô sắc ngã chấp, chính khi ấy thuộc ý sở thành ngã chấp. Này Citta, trong khi có vô sắc ngã chấp, thời ngã chấp ấy không thuộc thô phù ngã chấp, không thuộc ý sở thành ngã chấp, chính khi ấy thuộc vô sắc ngã chấp.
438. Này Citta, nếu có người hỏi ngươi: “Ngươi đã có tồn tại ở quá khứ hay không? Ngươi sẽ tồn tại ở tương lai hay không? Ngươi có tồn tại ở hiện tại hay không?” Này Citta, được hỏi vậy, ngươi trả lời như thế nào?
– Bạch Thế Tôn, nếu có người hỏi con: “Ngươi đã có tồn tại ở quá khứ hay không? Ngươi sẽ tồn tại ở tương lai hay không? Ngươi có tồn tại ở hiện tại hay không?” Bạch Thế Tôn, được hỏi vậy, con sẽ trả lời: “Tôi đã có tồn tại ở quá khứ, không phải không tồn tại; tôi sẽ tồn tại ở tương lai, không phải không tồn tại; tôi tồn tại ở hiện tại, không phải không tồn tại.” Bạch Thế Tôn, nếu được hỏi như vậy, con sẽ trả lời như vậy.
– Này Citta, nếu có người hỏi lại ngươi: “Ngã chấp quá khứ mà ngươi đã có, có phải ngã chấp ấy đối với ngươi là thật có, ngã chấp tương lai không tồn tại, ngã chấp hiện tại không tồn tại? Ngã chấp tương lai mà ngươi sẽ có, có phải ngã chấp ấy đối với ngươi là thật có, ngã chấp quá khứ không tồn tại, ngã chấp hiện tại không tồn tại? Ngã chấp hiện tại mà ngươi hiện có, có phải ngã chấp ấy đối với ngươi là thật có, ngã chấp quá khứ không tồn tại, ngã chấp tương lai không tồn tại?” Này Citta, được hỏi vậy, ngươi trả lời thế nào?
– Bạch Thế Tôn, nếu có người hỏi con: “Ngã chấp quá khứ mà ngươi đã có, có phải ngã chấp ấy đối với ngươi là thật có, ngã chấp tương lai không tồn tại, ngã chấp hiện tại không tồn tại? Ngã chấp tương lai mà ngươi sẽ có, có phải ngã chấp ấy đối với ngươi là thật có, ngã chấp quá khứ không tồn tại, ngã chấp hiện tại không tồn tại? Ngã chấp hiện tại mà ngươi hiện có, có phải ngã chấp ấy đối với ngươi là thật có, ngã chấp quá khứ không tồn tại, ngã chấp tương lai không tồn tại?” Bạch Thế Tôn, nếu được hỏi vậy, con sẽ trả lời: “Ngã chấp quá khứ mà tôi đã có, ngã chấp ấy đối với tôi là thật có, ngã chấp tương lai không tồn tại, ngã chấp hiện tại không tồn tại. Ngã chấp tương lai mà tôi sẽ có, ngã chấp ấy đối với tôi là thật có, ngã chấp quá khứ không tồn tại, ngã chấp hiện tại không tồn tại. Ngã chấp hiện tại mà tôi hiện có, ngã chấp ấy đối với tôi là thật có, ngã chấp quá khứ không tồn tại, ngã chấp tương lai không tồn tại.” Bạch Thế Tôn, được hỏi vậy, con sẽ trả lời như vậy.
439. – Như vậy, này Citta, trong khi có thô phù ngã chấp, thời ngã chấp ấy không thuộc ý sở thành ngã chấp, không thuộc vô sắc ngã chấp, chính khi ấy thuộc thô phù ngã chấp. Này Citta, trong khi có ý sở thành ngã chấp, thời ngã chấp ấy không thuộc thô phù ngã chấp, không thuộc vô sắc ngã chấp, chính khi ấy thuộc ý sở thành ngã chấp. Này Citta, trong khi có vô sắc ngã chấp, thời ngã chấp ấy không thuộc thô phù ngã chấp, không thuộc ý sở thành ngã chấp, chính khi ấy thuộc vô sắc ngã chấp.
440. Này Citta, ví như từ bò cái sanh ra sữa, từ sữa sanh ra lạc, từ lạc sanh ra sanh tô, từ sanh tô sanh ra thục tô, từ thục tô sanh ra đề-hồ. Khi thành sữa thời sữa ấy không thuộc lạc, không thuộc sanh tô, không thuộc thục tô, không thuộc đề-hồ, chính khi ấy thuộc sữa. Khi thành lạc... Khi thành sanh tô... Khi thành thục tô... Khi thành đề-hồ thời đề-hồ ấy không thuộc sữa, không thuộc lạc, không thuộc sanh tô, không thuộc thục tô, chính khi ấy thuộc đề-hồ.
Như vậy, này Citta, trong khi có thô phù ngã chấp... Này Citta, trong khi có ý sở thành ngã chấp... Này Citta, trong khi có vô sắc ngã chấp, thời ngã chấp ấy không thuộc thô phù ngã chấp, không thuộc ý sở thành ngã chấp, chính khi ấy thuộc vô sắc ngã chấp. Này Citta, chúng chỉ là danh từ thế gian, ngôn ngữ thế gian, danh xưng thế gian, ký pháp thế gian; Như Lai dùng chúng nhưng không chấp trước chúng.
441. Ðược nghe nói vậy, du sĩ ngoại đạo Poṭṭhapāda bạch Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho những người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Bạch Thế Tôn, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
442. Và Citta Hatthisāriputta cũng bạch Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho những người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tăng. Mong Thế Tôn cho con được xuất gia với Thế Tôn, mong cho con thọ Đại giới.
443. Citta Hatthisāriputta được xuất gia với Thế Tôn và được thọ Đại giới. Thọ Đại giới không bao lâu, Ðại đức Citta Hatthisāriputta ở một mình, an tịnh, không phóng dật, sống nhiệt tâm, cần mẫn; và không bao lâu, vị này chứng được mục đích tối cao mà con cháu các lương gia đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến, đó là Vô thượng cứu cánh Phạm hạnh; ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa”, Ðại đức Citta Hatthisāriputta hiểu biết như vậy.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.