Tam tạng Thánh điển PGVN 04 » Tam tạng Thượng Tọa bộ 04 »
Kinh Tăng Chi Bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tăng Chi Bộ/Chương XI. Mười một Pháp (Ekādasakanipāta)/II. Phẩm Tùy niệm (Anussativagga)
VI. KINH GIA CHỦ Ở THÀNH AṬṬHAKA (Aṭṭhakanāgarasutta)25 (A. V. 342)
16. Một thời, Tôn giả Ānanda trú ở Vesāli, tại Beluvagāmaka.26 Lúc bấy giờ, gia chủ Dasama, trú ở thành Aṭṭhaka, đã đi đến Pāṭaliputta vì một vài công việc. Rồi gia chủ Dasama, dân ở thành Aṭṭhaka đi đến một Tỷ-kheo; sau khi đến, thưa với Tỷ-kheo ấy:
– Thưa Tôn giả, Tôn giả Ānanda nay trú ở đâu? Thưa Tôn giả, con muốn yết kiến Tôn giả Ānanda.
– Này gia chủ, Tôn giả Ānanda nay trú ở Vesāli, tại Beluvagāmaka.
Rồi gia chủ Dasama, dân ở thành Aṭṭhaka, sau khi làm công việc xong ở Pāṭaliputta, đi đến Vesāli, Beluvagāmaka, đi đến Tôn giả Ānanda; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ānanda rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, gia chủ Dasama, dân ở thành Aṭṭhaka, thưa với Tôn giả Ānanda:
– Có một pháp nào, thưa Tôn giả Ānanda, được Thế Tôn, bậc Đã Biết, bậc Đã Thấy, bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác khéo nói, chính ở nơi đây, Tỷ-kheo trú không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần, sẽ giải thoát tâm chưa được giải thoát, hay sẽ đưa đến chấm dứt các lậu hoặc chưa được đoạn tận, hay đạt được vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được?
– Này gia chủ, có một pháp, được Thế Tôn, bậc Đã Biết... hay đạt được vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.
– Nhưng thưa Tôn giả Ānanda, một pháp ấy là gì, được Thế Tôn, bậc Đã Biết, bậc Đã Thấy, bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác khéo thuyết, chính ở nơi đây, Tỷ-kheo trú không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần, sẽ giải thoát tâm chưa được giải thoát, hay sẽ đưa đến chấm dứt các lậu hoặc chưa được đoạn tận, hay đạt được vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được?
– Ở đây, này gia chủ, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Vị ấy quán sát như sau: “Thiền thứ nhất này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm.” Phàm cái gì thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm, vị ấy quán tri: “Cái gì là vô thường, chịu sự đoạn diệt.” Vị ấy an trú ở đấy, đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc. Nếu không đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc, với tham ái ấy đối với pháp, với hoan hỷ ấy đối với pháp,27 với sự đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sanh, tại đấy nhập Niết-bàn, không còn phải trở lui thế giới này nữa. Này gia chủ, đây là một pháp này, được Thế Tôn, bậc Đã Biết, bậc Đã Thấy, bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác... vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.
Lại nữa, này gia chủ, Tỷ-kheo làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm... và an trú Thiền thứ ba... và an trú Thiền thứ tư. Vị ấy quán sát như sau: “Thiền thứ tư này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm.” Phàm cái gì... không còn phải trở lui thế giới này nữa. Này gia chủ, đây là một pháp này, được Thế Tôn, bậc Đã Biết, bậc Đã Thấy, bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác... vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.
Lại nữa, này gia chủ, Tỷ-kheo với tâm câu hữu với từ, an trú, biến mãn một phương; như vậy phương thứ hai, như vậy phương thứ ba, như vậy phương thứ tư,28 như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú, biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Vị ấy quán sát như sau: “Từ tâm giải thoát này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm.” Phàm cái gì... không còn trở lui thế giới này nữa. Này gia chủ, đây là một pháp, được Thế Tôn, bậc Đã Biết, bậc Đã Thấy, bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác... vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.
Lại nữa, này gia chủ, Tỷ-kheo với tâm câu hữu với bi... với tâm câu hữu với hỷ... với tâm câu hữu với xả, an trú, biến mãn một phương; như vậy phương thứ hai, như vậy phương thứ ba, như vậy phương thứ tư, như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú, biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Vị ấy quán sát như sau: “Xả tâm giải thoát này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm.” Phàm cái gì... không còn trở lui thế giới này nữa. Này gia chủ, đây là một pháp, được Thế Tôn, bậc Đã Biết, bậc Đã Thấy, bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác... vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.
Lại nữa, này gia chủ, Tỷ-kheo vượt qua một cách hoàn toàn các sắc tưởng, chấm dứt các tưởng chướng ngại, không tác ý các tưởng sai biệt, nghĩ rằng: “Hư không là vô biên”, chứng đạt và an trú Không vô biên xứ. Vị ấy quán sát như sau: “Chứng đắc Không vô biên xứ này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm.” Phàm cái gì... không còn trở lui thế giới ấy nữa. Này gia chủ, đây là một pháp, được Thế Tôn, bậc Đã Biết, bậc Đã Thấy, bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác... vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.
Lại nữa, này gia chủ, sau khi vượt qua Không vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng: “Thức là vô biên”, chứng đạt và an trú Thức vô biên xứ... sau khi vượt qua Thức vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng: “Vô sở hữu xứ”, chứng đạt và an trú Vô sở hữu xứ. Vị ấy quán sát như sau: “Chứng đắc Vô sở hữu xứ này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm.” Phàm cái gì... không còn trở lui thế giới ấy nữa. Này gia chủ, đây là một pháp, được Thế Tôn, bậc Đã Biết, bậc Đã Thấy, bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác... vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.
Khi nghe nói vậy, gia chủ Dasama, dân ở thành Aṭṭhaka, thưa với Tôn giả Ānanda:
– Thưa Tôn giả Ānanda, ví như một người tìm một cái cửa vào chỗ chôn cất, trong một lúc tìm ra được mười một cái cửa; cũng vậy, thưa Tôn giả, trong khi đi tìm một cửa bất tử, trong một lúc con tìm ra mười một cái cửa bất tử. Ví như, thưa Tôn giả, trong một ngôi nhà chỉ có một cái cửa, và nhà ấy bị cháy, người ấy chỉ có thể ra bằng một cửa để có thể được an toàn cho mình; cũng vậy, thưa Tôn giả, với mười một cửa bất tử này, con có thể tạo được sự an toàn cho con với chỉ một cửa bất tử. Thưa Tôn giả, đệ tử các ngoại đạo còn tìm cầu tiền của cúng dường cho vị thầy của mình, sao con lại không đảnh lễ cúng dường cho Tôn giả Ānanda!
Rồi gia chủ Dasama, dân ở thành phố Aṭṭhaka, thỉnh cúng các Tỷ-kheo ở Vesāli và Pāṭaliputta với các món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm, tự tay dâng cúng cho đến khi chúng Tăng được thỏa mãn và cúng một đôi y cho mỗi Tỷ-kheo. Nhưng riêng đối với Tôn giả Ānanda, vị ấy cúng ba y đầy đủ và xây dựng một ngôi tinh xá giá trị năm trăm đồng tiền.
Tham khảo
25 Xem M. I. 349, Aṭṭhakanāgara Sutta. Tham chiếu: Bát thành kinh 八城經 (T.01. 0026.217. 0802a11); Thập chi cư sĩ bát thành nhân kinh 十支居士八城人經 (T.01. 0092. 0916a17);
26 Chú giải: Một làng ở dưới núi phía Nam thành Vesāli.
27 AA. V. 85: Dhammarāgena dhammanandiyāti padadvayenapi samathavipassanāsu chandarāgo vutto. Samathavipassanāsu hi sabbena sabbaṃ chandarāgaṃ pariyādiyituṃ sakkonto arahā hoti, asakkonto anāgāmī hoti (“Với tham ái đối với pháp, với hoan hỷ đối với pháp” ý nói tham muốn thiền chỉ và thiền quán bởi 2 cách thức. Bậc A-la-hán có khả năng đoạn trừ hoàn toàn mọi tham muốn nhờ nơi thiền chỉ và thiền quán; bậc Bất lai thì không thể).
28 Xem A. V. 294; GS. V. 192 (kinh 208 ở trước).
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.