Tam tạng Thánh điển PGVN 04 » Tam tạng Thượng Tọa bộ 04 »
Kinh Tăng Chi Bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tăng Chi Bộ/Chương XI. Mười một Pháp (Ekādasakanipāta)/II. Phẩm Tùy niệm (Anussativagga)
III. KINH NANDIYA (Nandiyasutta)18 (A. V. 334)
13. Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, khu vườn Nigrodha. Lúc bấy giờ, Thế Tôn muốn an cư vào mùa mưa tại Sāvatthi. Nandiya, dòng họ Thích, được nghe: “Thế Tôn muốn an cư vào mùa mưa tại Sāvatthi.” Nandiya, dòng họ Thích, suy nghĩ như sau: “Ta hãy đến trú ở Sāvatthi vào mùa mưa. Tại đây, ta sẽ chăm lo công việc, và thỉnh thoảng có dịp được yết kiến Thế Tôn.” Rồi Thế Tôn đến trú ở Sāvatthi trong mùa mưa; Nandiya, dòng họ Thích, cũng đến trú ở Sāvatthi vào mùa mưa, tại đấy chăm lo công việc, và thỉnh thoảng có dịp được yết kiến Thế Tôn.
Lúc bấy giờ, nhiều vị Tỷ-kheo làm y cho Thế Tôn, nghĩ rằng: “Khi y làm xong, Thế Tôn sau ba tháng sẽ bộ hành ra đi.” Nandiya, dòng họ Thích, được nghe: “Khi y làm xong, Thế Tôn sau ba tháng sẽ bộ hành ra đi.” Nandiya, dòng họ Thích, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Nandiya, dòng họ Thích, bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, con nghe nói, nhiều Tỷ-kheo làm y cho Thế Tôn, nghĩ rằng: “Khi y làm xong, Thế Tôn sau ba tháng sẽ bộ hành ra đi.” Bạch Thế Tôn, giữa những người an trú với các an trú khác nhau, chúng con nên an trú với an trú của ai?
– Lành thay! Lành thay! Này Nandiya, như vậy thật xứng đáng cho thiện nam tử các ông, sau khi đi đến Như Lai, đã hỏi như vậy: “Bạch Thế Tôn, giữa những người an trú với các an trú khác nhau, chúng con nên an trú với an trú của ai?” Này Nandiya, hãy nhập cuộc với lòng tin, không phải với không có lòng tin. Hãy nhập cuộc với có giới, không phải với không giới.19 Hãy nhập cuộc với tinh cần tinh tấn, không với biếng nhác. Hãy nhập cuộc với trú niệm, không với thất niệm. Hãy nhập cuộc với định, không phải với không định. Hãy nhập cuộc với trí tuệ, không với liệt tuệ. Sau khi an trú trong sáu pháp, này Nandiya, hãy tu tập thêm nữa năm pháp này.
Ở đây, này Nandiya, ông hãy tùy niệm Như Lai: “Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.” Như vậy, này Nandiya, duyên vào Như Lai, ông hãy an trú niệm trong nội tâm.
Lại nữa, này Nandiya, ông phải tùy niệm Pháp: “Pháp được Thế Tôn khéo nói, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu.” Như vậy, này Nandiya, duyên vào pháp, ông hãy an trú niệm trong nội tâm.
Lại nữa, này Nandiya, ông cần phải tùy niệm bạn lành: “Thật có lợi cho ta! Thật khéo có lợi cho ta, rằng ta có các bạn lành biết thương mến ta, muốn ta được lợi ích, giáo giới giảng dạy.” Như vậy, này Nandiya, duyên vào bạn lành, ông hãy an trú niệm trong nội tâm.
Lại nữa, này Nandiya, ông cần phải tùy niệm thí của mình: “Thật có lợi cho ta! Thật khéo có lợi cho ta, rằng ta sống an trú với tâm ly cấu uế, xan tham, cùng với quần chúng bị xan tham ám ảnh, ta bố thí rộng rãi với bàn tay sạch sẽ, ưa thích từ bỏ, sẵn sàng để được yêu cầu, ưa thích phân phát vật bố thí.” Này Nandiya, như vậy duyên vào thí, ông hãy an trú niệm trong nội tâm.
Lại nữa, này Nandiya, hãy tùy niệm chư thiên: “Các chư thiên ấy, vượt qua sự cộng trú với chư thiên dùng các món ăn đoàn thực,20 được sanh với thân do ý tác thành, các chư thiên ấy quán thấy tự mình không có gì nữa phải làm, không cần phải làm lại những gì đã làm. Ví như, này Nandiya, Tỷ-kheo được phi thời giải thoát21 quán thấy tự mình không có gì nữa phải làm, không cần phải làm lại những gì đã làm. Cũng vậy, này Nandiya, các chư thiên ấy vượt qua sự cộng trú với chư thiên dùng các món ăn đoàn thực, được sanh với thân do ý tác thành, các chư thiên ấy quán thấy tự mình không có gì nữa phải làm, không cần phải làm lại những gì đã làm.” Như vậy, này Nandiya, duyên vào chư thiên, ông hãy an trú niệm trong nội tâm.
Thành tựu mười một pháp này, này Nandiya, vị Thánh đệ tử từ bỏ các ác, bất thiện pháp, không chấp thủ chúng. Ví như, này Nandiya, một cái ghè bị úp ngược, nước đã đổ ra, không thể đem hốt lại. Ví như ngọn lửa đốt một khóm rừng đầy cỏ khô đã được cháy lan tới, không có trở lui đốt lại vật đã bị cháy. Cũng vậy, này Nandiya, thành tựu mười một pháp này, vị Thánh đệ tử từ bỏ các ác, bất thiện pháp, không có chấp thủ chúng.
Tham khảo
18 Tham chiếu: Tạp. 雜 (T.02. 0099.858. 0218b13); Phật thuyết Nan-đề thích kinh 佛說難提釋經 (T.02. 113. 0505b18).
19 Pháp này được thêm vào, khác với kinh trước.
20 Tham khảo: A. III. 379 viết katassa paṭicayo natthi, karaṇīyaṃ na vijjati. A. IV. 355 viết natthi kiñci uttari karaṇīyaṃ, natthi katassa paṭicayo. UdA. 218 viết na hi bhāvitamaggo puna bhāvīyati.
21 AA. V. 82: Asamayavimuttoti asamayavimuttiyā vimutto khīṇāsavo (“Được phi thời giải thoát” nghĩa là được giải thoát, lậu tận nhờ “phi thời giải thoát”). Xem A. III. 173; SA. I. 182-83.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.