Viện Nghiên Cứu Phật Học

Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tăng Chi Bộ/ CHƯƠNG X MƯỜI PHÁP (DASAKANIPĀTA)/ XXI. PHẨM THÂN DO NGHIỆP SANH (KARAJAKĀYAVAGGA)

IX. KINH THÂN DO NGHIỆP SANH (Karajakāyasutta)217 (A. V. 299)

219. – Ta tuyên bố rằng, này các Tỷ-kheo, các nghiệp được tư niệm, được làm, được tích tập, nếu không cảm thọ [kết quả] thời không có chấm dứt, dầu quả ấy thuộc trong đời hiện tại, hay thuộc trong đời sau. Ta tuyên bố rằng, này các Tỷ-kheo, các nghiệp được tư niệm, được làm, được tích tập, nếu không cảm thọ [kết quả] thời khổ không chấm dứt. Vị Thánh đệ tử ấy, này các Tỷ- kheo, như vậy từ bỏ tham, từ bỏ sân, từ bỏ si, tỉnh giác, chánh niệm, với tâm câu hữu với từ, an trú biến mãn một phương; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư; như vậy phía trên, phía dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Vị ấy biết rõ như sau: “Trước kia, tâm này của ta là nhỏ,218 không tu tập. Nhưng nay, tâm này của ta là vô lượng, khéo tu tập. Lại nữa, phàm nghiệp gì được làm có giới hạn, nay nó sẽ không sống trong giới hạn ấy nữa, nó sẽ không đứng trong giới hạn ấy nữa.” Các ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, nếu đứa trẻ này, từ tuổi trẻ trở lên tu tập từ tâm giải thoát, nó có thể làm nghiệp ác không?

– Thưa không, bạch Thế Tôn.

– Do không làm điều ác, nó có cảm giác khổ hay không?

– Thưa không, bạch Thế Tôn. Không làm điều ác, bạch Thế Tôn, từ đâu nó sẽ cảm giác khổ được?

– Này các Tỷ-kheo, từ tâm giải thoát này cần phải tu tập bởi nữ nhân hay nam nhân. Này các Tỷ-kheo, thân này không bị nam nhân hay nữ nhân cầm lấy rồi mang đi. Này các Tỷ-kheo, con người phải chết này ở giữa những tư tưởng.219 Vị ấy rõ biết như sau: “Phàm ác nghiệp nào do ta làm từ trước với cái thân do nghiệp làm ra này, tất cả cần phải cảm thọ ở đây, nó không thể theo ta và được hiện hữu về sau.”220 Như vậy, này các Tỷ-kheo, từ tâm giải thoát được tu tập đưa đến không có trở lui,221 đối với Tỷ-kheo có trí tuệ, có được trong đời này, nhưng vị ấy chưa thể nhập sự giải thoát hơn thế nữa.

Với tâm câu hữu với bi... Với tâm câu hữu với hỷ... Với tâm câu hữu với xả, vị ấy biến mãn một phương và an trú; như vậy phương thứ hai, như vậy phương thứ ba, như vậy phương thứ tư; như vậy phía trên, phía dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Vị ấy biết rõ như sau: “Trước kia, tâm này của ta là nhỏ, không tu tập. Nhưng nay, tâm này của ta là vô lượng, khéo tu tập. Lại nữa, phàm nghiệp gì được làm có giới hạn, nay nó sẽ không sống trong giới hạn ấy nữa, nó không đứng trong giới hạn ấy nữa.” Các ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, nếu đứa trẻ này, từ tuổi trẻ trở lên tu tập xả tâm giải thoát, nó có thể làm nghiệp ác không?

– Thưa không, bạch Thế Tôn.

– Do không làm điều ác, nó có cảm giác khổ hay không?

– Thưa không, bạch Thế Tôn. Không làm điều ác, bạch Thế Tôn, từ đâu nó sẽ cảm giác khổ được?

Này các Tỷ-kheo, xả tâm giải thoát này cần phải được tu tập bởi nữ nhân hay nam nhân. Này các Tỷ-kheo, thân này không bị nam nhân hay nữ nhân cầm lấy rồi đem đi. Này các Tỷ-kheo, con người phải chết này ở giữa những tư tưởng. Vị ấy rõ biết như sau: “Phàm ác nghiệp nào do ta làm từ trước với cái thân do nghiệp làm ra này, tất cả cần phải cảm thọ ở đây, nó không thể theo ta và được hiện hữu về sau.” Như vậy, này các Tỷ-kheo, xả tâm này được tu tập, đưa đến không có trở lui, đối với Tỷ-kheo có trí tuệ, có được trong đời này, nhưng vị ấy chưa thể nhập sự giải thoát hơn thế nữa.

Tham khảo:

217 Bản tiếng Anh của PTS: The Brahma-moods, nghĩa là Phạm thiên trú. Brahmavihāvā: Phạm thiên trú. Tham chiếu: Tăng. 增 (T.02. 0125.48.1. 0785c24); Tư kinh 思經 (T.01. 0026.15. 0437b24).

218 Paritta. Xem D. I. 251.

219 AA. V. 76: Cittantaroti cittakāraṇo, atha vā citteneva antariko (“Giữa những tư tưởng” nghĩa là có thể trong sát-na tâm này con người ở đời này, hoặc trong sát-na tâm kế tiếp, tái sanh ở cõi trời hoặc nơi đau khổ nào đó).

220 Na taṃ anugaṃ bhavissatīti. AA. V. 78 viết anubhavissati (= na anugataṃ bhavissati), chỉ cho một vị đang tu tập theo đạo lộ Tứ Thánh đế.

221 AA. V. 78: Anāgāmitāyāti jhānānāgāmitāya. Đây là tầng thiền của bậc Bất lai (Jhānānāgāmitāya).

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.