Tam tạng Thánh điển PGVN 04 » Tam tạng Thượng Tọa bộ 04 »
Kinh Tăng Chi Bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tăng Chi Bộ/ CHƯƠNG X MƯỜI PHÁP (DASAKANIPĀTA)/ IX. PHẨM TRƯỞNG LÃO (THERAVAGGA)
IX. KINH TỶ-KHEO KOKĀLIKA (Kokālikasutta)115 (A. V. 170)
89. Bấy giờ, có Tỷ-kheo Kokālika đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Kokālika bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, Sāriputta và Moggallāna là ác dục, bị ác dục chinh phục.
– Này Kokālika, chớ có nói vậy! Này Kokālika, chớ có nói vậy! Này Kokālika, tâm hãy tịnh tín đối với Sāriputta và Moggallāna. Hiền thiện là Sāriputta và Moggallāna!
Lần thứ hai, Tỷ-kheo Kokālika bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, dầu Thế Tôn có lòng tin và tin tưởng, đối với con, Sāriputta và Moggallāna là ác dục, bị ác dục chinh phục.
– Này Kokālika, chớ có nói vậy! Này Kokālika, chớ có nói vậy! Này Kokālika, tâm hãy tịnh tín đối với Sāriputta và Moggallāna. Hiền thiện là Sāriputta và Moggallāna!
Lần thứ ba, Tỷ-kheo Kokālika bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn,... bị ác dục chinh phục.
– Này Kokālika,... Hiền thiện là Sāriputta và Moggallāna!
Rồi Tỷ-kheo Kokālika từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Thế Tôn rồi ra đi. Tỷ-kheo Kokālika ra đi không bao lâu, toàn thân nổi lên những mụt to bằng hạt cải; sau khi lớn bằng hạt cải, chúng lớn lên bằng hạt đậu; sau khi lớn lên bằng hạt đậu, chúng lớn lên bằng hạt đậu lớn; sau khi lớn lên bằng hạt đậu lớn, chúng lớn lên bằng hòn sỏi; sau khi lớn lên bằng hòn sỏi, chúng lớn lên bằng hột táo; sau khi lớn lên bằng hột táo, chúng lớn lên bằng trái Āmala (A-ma-lặc); sau khi lớn lên bằng trái Āmala, chúng lớn lên bằng trái dưa Beḷuva chưa chín; sau khi lớn lên bằng trái dưa Beḷuva chưa chín, chúng lớn lên bằng trái dưa Billa đã chín; sau khi lớn lên bằng trái Billa đã chín, chúng bị phá vỡ, mủ và máu chảy ra. Tại đấy, vị ấy nằm trên lá chuối như con cá ăn phải đồ độc.
Lúc ấy, có Phạm thiên Tudu Pacceka116 đi đến Tỷ-kheo Kokālika; sau khi đến, đứng trên hư không và nói với Tỷ-kheo Kokālika:
– Này Kokālika, hãy đặt tâm tịnh tín nơi Sāriputta và Moggallāna. Hiền thiện là Sāriputta và Moggallāna!
– Ngài là ai?
– Ta là Phạm thiên Tudu Pacceka.
– Thưa Hiền giả, có phải Hiền giả là người được Thế Tôn trả lời là đã chứng Bất lai? Sao Hiền giả lại đến đây? Hãy xem như thế nào Hiền giả đã lầm lạc trong vấn đề này.
Rồi Phạm thiên Tudu Pacceka nói lên với Tỷ-kheo Kokālika bài kệ này:
Con người được sanh ra,
Sanh với búa trong miệng,
Người ngu nói điều xấu,
Là tự chém vào mình.
Ai khen người đáng chê,
Ai chê người đáng khen,
Đều chất chứa bất hạnh,
Do từ miệng tạo thành.
Và chính do bất hạnh,
Nên không được an lạc,
Nhỏ thay bất hạnh này,
Chính do cờ bạc sanh,
Khiến tài sản tiêu hao.
Bất hạnh này lớn hơn,
Không những mất tất cả,
Lại mất cả tự mình,
Là người khởi ác ý,
Đối với chư Thiện Thệ.
Ai chỉ trích bậc Thánh,
Với lời, với ác ý,
Trải qua trăm ngàn thời,
Với Nirabbuda,
Còn thêm ba mươi sáu,
Với năm Abbuda,
Phải sanh vào địa ngục,
Chịu khổ đau tại đấy.
Rồi Tỷ-kheo Kokālika, do chứng bệnh ấy mệnh chung. Sau khi chết, Tỷ-kheo Kokālika sanh vào địa ngục Sen Hồng vì tâm khởi ác ý đối với Sāriputta và Moggallāna. Rồi Phạm thiên Sahampati, sau khi đêm gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Đứng một bên, Phạm thiên Sahampati bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Kokālika đã mệnh chung. Bạch Thế Tôn, Tỷ- kheo Kokālika đã mệnh chung, phải sanh vào địa ngục Sen Hồng vì tâm khởi ác ý đối với Sāriputta và Moggallāna.
Phạm thiên Sahampati nói như vậy. Nói như vậy xong, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Thế Tôn rồi biến mất tại chỗ.
Rồi Thế Tôn, sau khi đêm đã qua, bảo các Tỷ-kheo:
– Này các Tỷ-kheo, đêm nay Phạm thiên Sahampati, khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Ta; sau khi đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Đứng một bên, này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Sahampati thưa với Ta: “Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Kokālika đã mệnh chung. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Kokālika đã mệnh chung, phải sanh vào địa ngục Sen Hồng vì tâm khởi ác ý đối với Sāriputta và Moggallāna.” Này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Sahampati nói như vậy. Nói như vậy xong, đảnh lễ Ta, thân phía hữu hướng về Ta rồi biến mất tại chỗ.
Khi nghe nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, lâu dài bao nhiêu là tuổi thọ ở địa ngục Sen Hồng?
– Này Tỷ-kheo, tuổi thọ ở địa ngục Sen Hồng rất khó mà tính được. Có chừng ấy năm, hay có chừng ấy trăm năm, hay có chừng ấy ngàn năm, hay có chừng ấy trăm ngàn năm.
– Bạch Thế Tôn, có thể cho một ví dụ được chăng?
Thế Tôn nói:
– Có thể được, này Tỷ-kheo.
Ví như, này Tỷ-kheo, một cỗ xe hai mươi cân Kosala chở đầy hạt mè. Rồi một người cứ sau một trăm năm, sau một trăm năm lấy lên một hạt mè. Mau hơn, này Tỷ-kheo, là cỗ xe hai mươi cân Kosala chở đầy hạt mè, do phương pháp này, đi đến tận sạch không còn gì nữa, cũng chưa đủ là một Abbuda địa ngục. Ví như, này Tỷ-kheo, hai mươi Abbuda địa ngục là bằng một Nirabbuda địa ngục. Ví như, này Tỷ-kheo, hai mươi Nirabbuda địa ngục là bằng một Ababa địa ngục. Ví như, này Tỷ-kheo, hai mươi Ababa địa ngục là bằng một Aṭaṭa địa ngục. Ví như, này Tỷ-kheo, hai mươi Aṭaṭa địa ngục là bằng một Ahaha địa ngục. Ví như, này Tỷ-kheo, hai mươi Ahaha địa ngục là bằng một Kumuda địa ngục. Ví như, này Tỷ-kheo, hai mươi Kumuda địa ngục là bằng một Sogandhika địa ngục. Ví như, này Tỷ-kheo, hai mươi Sogandhika địa ngục là bằng một Uppalaka địa ngục. Ví như, này Tỷ-kheo, hai mươi Uppalaka địa ngục là bằng một Puṇḍarīka địa ngục. Ví như, này Tỷ-kheo, hai mươi Puṇḍarīka địa ngục là bằng một Paduma địa ngục. Này Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Kokālika phải sanh vào địa ngục Paduma (Sen Hồng) vì khởi lên ác ý đối với Sāriputta và Moggallāna.
Thế Tôn nói như vậy. Thiện Thệ nói xong, bậc Đạo Sư lại nói thêm:
Con người được sanh ra,
Sanh với búa trong miệng,
Người ngu nói điều xấu,
Là tự chém vào mình.
Ai khen người đáng chê,
Ai chê người đáng khen,
Đều chất chứa bất hạnh,
Do từ miệng tạo thành.
Và chính do bất hạnh,
Nên không được an lạc,
Nhỏ thay bất hạnh này,
Chính do cờ bạc sanh,
Khiến tài sản tiêu hao.
Bất hạnh này lớn hơn,
Không những mất tất cả,
Lại mất cả tự mình,
Là người khởi ác ý,
Đối với chư Thiện Thệ.
Ai chỉ trích bậc Thánh,
Với lời, với ác ý,
Trải qua trăm ngàn đời,
Với Nirabudda,
Còn thêm ba mươi sáu,
Với năm Abbuda,
Phải sanh vào địa ngục,
Chịu khổ đau tại đấy.
Tham khảo:
115 Tham chiếu: Tăng. 增 (T.02. 0125.21.5. 0603b02); Thế ký kinh 世記經 (T.01. 0001.30. 0114b07); Tạp. 雜 (T.02. 0099.1278. 0351b12); Biệt Tạp. 別雜 (T.02. 0100.106. 0411b24); Biệt Tạp. 別雜 (T.02. 0100.276. 0470a14).
116 Turū Pacceka Brahmā còn được viết Tudu Pacceka Brahmā, Tudi Pacceka Brahmā, Turi Pacceka Brahmā, tức Bích-chi Phạm thiên Đô-đầu (辟支梵天都頭) (N.25. 0007.10.89. 0066a01) là Bổn sư của Kokālika. Phạm thiên Tudu khi mệnh chung được Thế Tôn tuyên bố là chứng được quả Bất lai. Xem A. V. 171; AA. II. 852; S. I. 149; SA. I. 167f; II. 476; J. IV. 245.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.