Viện Nghiên Cứu Phật Học

Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tăng Chi Bộ/ CHƯƠNG X MƯỜI PHÁP (DASAKANIPĀTA)/ VIII. PHẨM ƯỚC NGUYỆN (ĀKAṄKHAVAGGA)

 

V. KINH MIGASĀLĀ (Migasālāsutta)96 (A. V. 137)

75. Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anāthapiṇḍika. Rồi Tôn giả Ānanda vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi đến trú xứ của nữ cư sĩ Migasālā; sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi nữ cư sĩ Migasālā97 đi đến Tôn giả Ānanda; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ānanda rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, nữ cư sĩ Migasālā bạch Tôn giả Ānanda:

– Thưa Tôn giả Ānanda, như thế nào, thế nào, cần phải hiểu pháp được Thế Tôn thuyết giảng, rằng người sống Phạm hạnh và người sống không Phạm hạnh, cả hai sẽ đồng một chỗ thọ sanh trong đời sau? Thưa Tôn giả, phụ thân con, Purāṇa, sống Phạm hạnh, sống viễn ly, từ bỏ dâm dục hèn hạ. Vị ấy, sau khi mệnh chung được Thế Tôn trả lời: “Là bậc Nhất lai sanh với thân ở Tusita.” Còn Isidatta, cậu của con, thưa Tôn giả, sống không Phạm hạnh, tự bằng lòng với vợ mình, sau khi mệnh chung, được Thế Tôn trả lời: “Là bậc Nhất lai, sanh với thân ở Tusita.” Như thế nào, thế nào, thưa Tôn giả Ānanda, cần phải hiểu pháp này do Thế Tôn tuyên thuyết: “Cả hai, sống Phạm hạnh và sống không Phạm hạnh đều đồng đẳng về sanh thú trong tương lai”?

– Này chị, chính như vậy là câu trả lời của Thế Tôn.

Rồi Tôn giả Ānanda, sau khi nhận đồ khất thực tại nhà của nữ cư sĩ Migasālā, từ chỗ ngồi đứng dậy rồi ra đi. Rồi Tôn giả Ānanda, sau khi khất thực, ăn xong, trên con đường trở về, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn:

– Ở đây, bạch Thế Tôn, vào buổi sáng, con đắp y, cầm y bát đi đến trú xứ của nữ cư sĩ Migasālā; sau khi đến, con ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi nữ cư sĩ Migasālā đi đến con; sau khi đến, đảnh lễ con rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, bạch Thế Tôn, nữ cư sĩ Migasālā thưa với con: “Như thế nào, thế nào, thưa Tôn giả Ānanda, cần phải hiểu pháp này do Thế Tôn thuyết: ‘Cả hai, sống Phạm hạnh và sống không Phạm hạnh đều đồng đẳng về sanh thú trong tương lai.’ Purāṇa, thân phụ con, thưa Tôn giả, sống Phạm hạnh, sống viễn ly, tránh xa dâm dục hạ liệt, khi mệnh chung, được Thế Tôn trả lời: ‘Là bậc Nhất lai, sanh với thân ở Tusita.’ Còn Isidatta, cậu của con, thưa Tôn giả, không sống trong Phạm hạnh, tự bằng lòng với vợ mình, sau khi mệnh chung, được Thế Tôn trả lời: ‘Là bậc Nhất lai, sanh với thân ở Tusita.’ Như thế nào, thế nào, thưa Tôn giả Ānanda, cần phải hiểu pháp này do Thế Tôn tuyên thuyết: ‘Cả hai, sống Phạm hạnh và sống không Phạm hạnh đều đồng đẳng về sanh thú trong tương lai’?” Được hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con nói với nữ cư sĩ Migasālā:

– Này chị, chính như vậy là câu trả lời của Thế Tôn.

– Nhưng này Ānanda, ai là nữ cư sĩ Migasālā, lại ngu si, kém thông minh, với thân như bà mẹ, với trí như bà mẹ, để có thể hiểu biết sự thắng liệt giữa các

hạng người.98

Này Ānanda, có mười hạng người này có mặt hiện hữu ở đời. Thế nào là mười? Ở đây, này Ānanda, có hạng người hành ác giới, không như thật rõ biết Tâm giải thoát, Tuệ giải thoát; ở đây, ác giới ấy của người ấy được diệt trừ, không có dư tàn. Người ấy không có nghe pháp, không có học nhiều, không có khéo thể nhập với chánh kiến, không chứng được nhất thời giải thoát.99 Người ấy sau khi thân hoại mệnh chung, hướng về thối đọa, không hướng về thù thắng, chỉ đi đến thối đọa, không đi đến thù thắng.

Nhưng ở đây, này Ānanda, có hạng người hành ác giới, như thật rõ biết Tâm giải thoát, Tuệ giải thoát; ở đây, ác giới ấy của người ấy được trừ diệt, không có dư tàn. Người ấy có nghe pháp, có học nhiều, có khéo thể nhập với chánh kiến, chứng được nhất thời giải thoát. Người ấy sau khi thân hoại mệnh chung, hướng về thù thắng, không hướng về thối đọa, chỉ đi đến thù thắng, không đi đến thối đọa.

Ở đây, này Ānanda, ai là người đo lường, đo lường như sau: “Những pháp ấy có mặt trong người này, những pháp ấy cũng có mặt trong người kia. Vì sao giữa hai người ấy, một là hạ liệt, một là thù thắng?” Nhận xét như vậy đem lại đau khổ lâu dài cho họ. Ở đây, này Ānanda, người này có ác giới và như thật rõ biết Tâm giải thoát, Tuệ giải thoát ấy; ở đây, ác giới ấy của người ấy được trừ diệt, không có dư tàn. Người ấy có nghe pháp, có học hỏi nhiều, có khéo thể nhập với chánh kiến, chứng được nhất thời giải thoát. Này Ānanda, hạng người này, so sánh với hạng người trước là vi diệu hơn, là thù thắng hơn. Vì sao? Vì dòng pháp này đưa người này ra phía trước. Nhưng ai ngoài Như Lai có thể biết được sự khác biệt? Do vậy, này Ānanda, chớ có làm người đo lường các hạng người. Chớ có làm sự đo lường các hạng người. Tự đào hố cho mình là người đi làm sự đo lường các hạng người. Chỉ có Ta, này Ānanda, mới có thể làm sự đo lường các hạng người. Ai có thể được như Ta?

Nhưng ở đây, này Ānanda, có hạng người có giới nhưng không như thật rõ biết Tâm giải thoát, Tuệ giải thoát; ở đây, giới ấy của người ấy bị đoạn diệt, không có dư tàn. Người ấy không có nghe pháp, không có học hỏi nhiều, không có khéo thể nhập với chánh kiến, nên không chứng được nhất thời giải thoát. Người ấy sau khi thân hoại mệnh chung, hướng về thối đọa, không hướng về thù thắng, chỉ đi đến thối đọa, không đi đến thù thắng.

Nhưng ở đây, này Ānanda, có hạng người có giới như thật rõ biết Tâm giải thoát, Tuệ giải thoát; ở đây, giới ấy của người ấy được trừ diệt, không có dư tàn. Người ấy có nghe pháp, có học hỏi nhiều, khéo thể nhập với chánh kiến, chứng được nhất thời giải thoát. Người ấy sau khi thân hoại mệnh chung, hướng về thù thắng, không hướng về thối đọa, chỉ đi đến thù thắng, không đi đến thối đọa.

Ở đây, này Ānanda... Chỉ có Ta, này Ānanda, mới có thể làm sự đo lường các hạng người. Ai có thể được như Ta?

Nhưng ở đây, này Ānanda, có hạng người có tham rất sắc sảo, người ấy không như thật rõ biết Tâm giải thoát, Tuệ giải thoát; ở đây, lòng tham của người ấy được trừ diệt, không có dư tàn. Người ấy không có nghe pháp, không có học hỏi nhiều, không có khéo thể nhập với chánh kiến, không có chứng được nhất thời giải thoát. Người ấy sau khi thân hoại mệnh chung, hướng về thối đọa, không hướng về thù thắng, chỉ đi đến thối đọa, không đi đến thù thắng.

Nhưng ở đây, này Ānanda, có hạng người có tham rất sắc sảo, như thật rõ biết Tâm giải thoát, Tuệ giải thoát; ở đây, lòng tham của người ấy được trừ diệt, không có dư tàn. Người ấy nghe pháp, học hỏi nhiều, khéo thể nhập với chánh kiến, chứng được nhất thời giải thoát. Người ấy sau khi thân hoại mệnh chung, hướng về thù thắng, không hướng về thối đọa, chỉ đi đến thù thắng, không đi đến thối đọa.

Ở đây, này Ānanda... Chỉ có Ta, này Ānanda, mới có thể làm sự đo lường các hạng người. Ai có thể được như Ta?

Nhưng ở đây, này Ānanda, có hạng người phẫn nộ, không như thật rõ biết Tâm giải thoát, Tuệ giải thoát; ở đây, lòng phẫn nộ ấy của người ấy được trừ diệt, không có dư tàn. Người ấy không có nghe pháp, không có học hỏi nhiều, không có khéo thể nhập với chánh kiến, không chứng được nhất thời giải thoát. Người ấy sau khi thân hoại mệnh chung, hướng về thối đọa, không hướng về thù thắng, chỉ đi đến thối đọa, không đi đến thù thắng.

Nhưng ở đây, này Ānanda, có hạng người có phẫn nộ và như thật rõ biết Tâm giải thoát, Tuệ giải thoát; ở đây, lòng phẫn nộ ấy của người ấy được trừ diệt, không có dư tàn. Người ấy có nghe pháp, học hỏi nhiều, khéo thể nhập với chánh kiến, chứng được nhất thời giải thoát. Người ấy sau khi thân hoại mệnh chung, hướng về thù thắng, không hướng về thối đọa, chỉ đi đến thù thắng, không đi đến thối đọa.

Ở đây, này Ānanda... Chỉ có Ta, này Ānanda, mới có thể làm sự đo lường các hạng người. Ai có thể được như Ta?

Nhưng ở đây, này Ānanda, có hạng người có trạo cử, không như thật rõ biết Tâm giải thoát, Tuệ giải thoát; ở đây, trạo cử của người ấy được trừ diệt, không có dư tàn. Người ấy không có nghe nhiều, không có học hỏi nhiều, không có khéo thể nhập với chánh kiến, không chứng được nhất thời giải thoát. Người ấy sau khi thân hoại mệnh chung, hướng về thối đọa, không hướng về thù thắng, chỉ đi đến thối đọa, không đi đến thù thắng.

Nhưng ở đây, này Ānanda, có hạng người có trạo cử, như thật rõ biết Tâm giải thoát, Tuệ giải thoát; ở đây, trạo cử của người ấy được trừ diệt, không có dư tàn. Người ấy có nghe pháp, có học hỏi nhiều, khéo thể nhập với chánh kiến, chứng được nhất thời giải thoát. Người ấy sau khi thân hoại mệnh chung, hướng về thù thắng, không hướng về thối đọa, chỉ đi đến thù thắng, không đi đến thối đọa.

Ở đây, này Ānanda, ai là người đo lường, đo lường như sau: “Những pháp ấy có mặt trong người này, những pháp ấy cũng có mặt trong người kia. Vì sao giữa hai người ấy, một là hạ liệt, một là thù diệu?” Nhận xét như vậy đem lại đau khổ lâu dài cho họ. Ở đây, này Ānanda, người này là trạo cử, và như thật rõ biết Tâm giải thoát, Tuệ giải thoát ấy; ở đây, trạo cử của người ấy được trừ diệt, không có dư tàn. Người ấy có nghe pháp, có học hỏi nhiều, có khéo thể nhập với chánh kiến, chứng được nhất thời giải thoát. Này Ānanda, hạng người này so sánh với hạng người trước, là vi diệu hơn, là thù thắng hơn. Vì sao? Vì dòng pháp này đưa người này ra phía trước. Nhưng ai ngoài Như Lai có thể biết được sự khác biệt? Do vậy, này Ānanda, chớ có làm người đo lường các hạng người. Chớ có làm sự đo lường các hạng người. Tự đào hố cho mình là người làm sự đo lường các hạng người. Chỉ có Ta, này Ānanda, mới có thể làm sự đo lường các hạng người. Ai có thể được như Ta?

Nhưng này Ānanda, ai là nữ cư sĩ Migasālā, lại ngu si, kém thông minh, với thân như bà mẹ, với trí như bà mẹ, để có thể hiểu biết sự thắng liệt giữa các hạng người.

Này Ānanda, có mười hạng người này có mặt hiện hữu ở đời.

Giới như thế nào, này Ānanda, Purāṇa được thành tựu, giới ấy Isidatta chưa thành tựu; do vậy, ở đây, Purāṇa có sanh thú khác với sanh thú của Isidatta. Tuệ như thế nào, này Ānanda, Isidatta được thành tựu, tuệ ấy Purāṇa chưa thành tựu; do vậy, ở đây, Isidatta có sanh thú khác với sanh thú của Purāṇa. Như vậy, này Ānanda, cả hai người này đều có thiếu sót một chi phần.

Tham khảo:

96 Tham chiếu: Tạp. 雜 (T.02. 0099.990-991. 0257b26-0258a27).

97 Phần đầu của kinh này, xem A. III. 347.

98 Ammakā ammakapaññā. Bản Tích Lan viết ambakā ambakapaññā. Bản Thái Lan viết andhakā andhakapaññā. Ke ca purisapuggalaparopariye ñāṇe. Purisapuggalā chỉ cho hạng người thù thắng tức là bậc thiện sĩ hay chân nhân (sappurisā), paropariye ñāṇe là sự nhận biết sáng suốt về căn tánh của con người.

99 Sāmāyika: Thời giải thoát. Xem M. III. 110. Chú giải giải thích là vị ấy không chứng được hỷ và hân hoan ngang qua việc nghe giáo pháp.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.