Tam tạng Thánh điển PGVN 04 » Tam tạng Thượng Tọa bộ 04 »
Kinh Tăng Chi Bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
Phật giáo nguyên thủy/Kinh tạng Pali/Kinh Tăng Chi Bộ/Chương VIII. Tám Pháp (Aṭṭhakanipāta)/VII. Phẩm Đất rúng động (Bhūmicālavagga)
X. KINH ĐỘNG ĐẤT (Bhūmicālasutta)103 (A. IV. 308)
70. Một thời, Thế Tôn trú ở Vesāli, tại Đại Lâm, ở ngôi nhà có nóc nhọn. Rồi Thế Tôn vào buổi sáng, đắp y, đem theo y và bát, vào Vesāli để khất thực. Sau khi đi khất thực, ăn xong và trên đường trở về, Ngài nói với Tôn giả Ānanda:
- Này Ānanda, hãy lấy tọa cụ, chúng ta sẽ đi đến đền Cāpāla để nghỉ trưa.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Ānanda vâng đáp Thế Tôn, lấy tọa cụ và đi theo sau lưng Thế Tôn. Thế Tôn đi đến đền Cāpāla; sau khi đến, Ngài ngồi trên chỗ đã soạn sẵn.
Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với Tôn giả Ānanda:
Này Ānanda, khả ái thay Vesāli! Khả ái thay đền Udena! Khả ái thay đền Gotamaka! Khả ái thay đền Sattamba! Khả ái thay đền Bahuputtaka! Khả ái thay đền Sārandada! Khả ái thay đền Cāpāla! Này Ānanda, những ai đã tu tập bốn thần túc, làm cho sung mãn, thành thạo, thông suốt, điêu luyện, thiện xảo, vững vàng. Nếu muốn, này Ānanda, người ấy có thể sống một kiếp hay phần kiếp còn lại. Này Ānanda, nay Như Lai đã tu tập bốn thần túc, làm cho sung mãn, thành thạo, thông suốt, điêu luyện, thiện xảo, vững vàng. Này Ānanda, nếu muốn, Như Lai có thể sống một kiếp hay phần kiếp còn lại.
Như vậy, Tôn giả Ānanda không thể nhận hiểu sự gợi ý quá rõ ràng của Thế Tôn, sự hiện tướng quá rõ ràng của Thế Tôn, Tôn giả không thỉnh cầu Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người”, vì tâm của Tôn giả bị Ác ma ám ảnh.
Lần thứ hai, Thế Tôn... Lần thứ ba, Thế Tôn nói với Tôn giả Ānanda:
- Này Ānanda, khả ái thay Vesāli! Khả ái thay đền Udena! Khả ái thay đền Gotamaka! Khả ái thay đền Sattamba! Khả ái thay đền Bahuputtaka! Khả ái thay đền Sārandada! Khả ái thay đền Cāpāla! Này Ānanda, những ai đã tu tập bốn thần túc, làm cho sung mãn, thành thạo, thông suốt, điêu luyện, thiện xảo, vững vàng. Nếu muốn, này Ānanda, người ấy có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại. Này Ānanda, Như Lai đã tu tập bốn thần túc, làm cho sung mãn, thành thạo, thông suốt, điêu luyện, thiện xảo, vững vàng. Này Ānanda, nếu muốn, Như Lai có thể sống một kiếp hay phần kiếp còn lại.
Như vậy, Tôn giả Ānanda không thể nhận hiểu sự gợi ý quá rõ ràng của Thế Tôn, sự hiện tướng quá rõ ràng của Thế Tôn, Tôn giả không thỉnh cầu Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người”, vì tâm của Tôn giả bị Ác ma ám ảnh.
Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Ānanda:
- Này Ānanda, hãy đi và làm những gì ông nghĩ là phải thời.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Ānanda vâng lời Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Ngài, thân bên hữu hướng về Thế Tôn rồi ra đi, ngồi xuống một gốc cây, không xa Thế Tôn.
Tôn giả Ānanda ra đi chưa bao lâu, Ác ma nói với Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy diệt độ! Thiện Thệ hãy diệt độ! Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ! Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn đã nói: “Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ cho đến khi nào những Tỷ-kheo của Ta chưa trở thành những đệ tử tinh thông, có huấn luyện, có tin tưởng, đạt được an ổn khỏi các khổ ách, nghe nhiều, thọ trì pháp, thực hành pháp và tùy pháp, sở hành chơn chánh, hành trì theo pháp; sau khi học hỏi như bậc Sư trưởng của mình, chưa có thể tuyên bố, thuyết giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tích và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà đạo khởi lên, chưa có thể bác bỏ, hàng phục với Chánh pháp, chưa có thể thuyết pháp thần diệu.”
Bạch Thế Tôn, nay những Tỷ-kheo của Thế Tôn đã trở thành những đệ tử tinh thông, có huấn luyện, có tin tưởng, đạt được an ổn khỏi các khổ ách, nghe nhiều, thọ trì pháp, thực hành pháp và tùy pháp, sở hành chơn chánh, hành trì theo pháp; sau khi học hỏi như bậc Sư trưởng của mình, đã có thể tuyên bố, thuyết giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tích và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà đạo khởi lên, đã có thể bác bỏ, hàng phục với Chánh pháp, có thể thuyết pháp thần diệu.
Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy diệt độ! Bạch Thiện Thệ, Thiện Thệ hãy diệt độ! Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn đã nói: “Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ cho đến khi nào những Tỷ-kheo-ni của Ta chưa trở thành những đệ tử tinh thông, có huấn luyện, có tin tưởng... khi nào những nam cư sĩ của Ta chưa trở thành... khi nào những nữ cư sĩ của Ta chưa trở thành những đệ tử tinh thông, có huấn luyện, có tin tưởng, đạt được an ổn khỏi các khổ ách, nghe nhiều, thọ trì pháp, thực hành pháp và tùy pháp, sở hành chơn chánh, hành trì theo pháp; sau khi học hỏi như bậc Sư trưởng của mình, chưa có thể tuyên bố, thuyết giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tích và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi nào có tà đạo khởi lên, chưa có thể bác bỏ, hàng phục với Chánh pháp, chưa có thể thuyết pháp thần diệu.”
Bạch Thế Tôn, nay những nữ cư sĩ của Thế Tôn đã trở thành đệ tử tinh thông, có huấn luyện, có tin tưởng, đạt được an ổn khỏi khổ ách, nghe nhiều, thọ trì pháp, thực hành pháp và tùy pháp, sở hành chơn chánh, hành trì theo pháp; sau khi học hỏi như bậc Sư trưởng của mình, đã có thể tuyên bố, thuyết giảng trình bày, xác định, khai minh, phân tích và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà đạo khởi lên, đã có thể bác bỏ, hàng phục với Chánh pháp, có thể thuyết pháp thần diệu.
Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy diệt độ! Thiện Thệ hãy diệt độ! Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ! Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn đã nói: “Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào Phạm hạnh Ta giảng dạy chưa thịnh đạt, phát triển, quảng bá, biến mãn, phổ biến, khéo thuyết giảng cho chư thiên và loài người.”
Nay bạch Thế Tôn, Phạm hạnh Thế Tôn giảng dạy được thịnh đạt, phát triển, quảng bá, biến mãn, phổ biến, khéo thuyết giảng cho chư thiên và loài người. Nay Thế Tôn hãy diệt độ! Thiện Thệ hãy diệt độ! Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ!
- Này Ác ma hãy yên tâm, không bao lâu Như Lai sẽ diệt độ. Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay, Như Lai sẽ diệt độ!
Và tại đền Cāpāla, Thế Tôn chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ hành [không duy trì mạng sống lâu hơn nữa]. Khi Thế Tôn từ bỏ thọ hành, thời đại địa chấn động ghê rợn, tóc lông dựng ngược, sấm trời vang dậy. Lúc bấy giờ, Thế Tôn hiểu ý nghĩa sự kiện này, liền thốt ra lời cảm hứng như sau:
Mạng sống có hạn hay vô hạn,
Tu sĩ từ bỏ không kéo dài,
Nội tâm an lạc trú thiền định,
Như thoát áo giáp tự ngã mang.
Lúc bấy giờ, Tôn giả Ānanda suy nghĩ: “Thật là lớn, đất chấn động này! Thật là to lớn, đất chấn động này, đại địa chấn động, ghê rợn, tóc lông dựng ngược và sấm trời vang dậy! Do nhân gì, do duyên gì, đại địa chấn động hiển lộ như vậy?”
Rồi Tôn giả Ānanda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn:
- Thật là lớn, đất chấn động này! Thật là to lớn, bạch Thế Tôn, đất chấn động này, đại địa chấn động, ghê rợn, tóc lông dựng ngược và sấm trời vang dậy! Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, đại địa chấn động hiển lộ như vậy?
- Này Ānanda, có tám nhân, có tám duyên, khiến đại địa chấn động. Thế nào là tám?
Này Ānanda, đại địa này thiết lập trên nước, nước ở trên gió và gió ở trên hư không. Này Ānanda, đến thời gió lớn khởi lên, khi gió lớn thổi lên nước rung động, và khi nước rung động thì quả đất rung động. Đó là nhân thứ nhất, duyên thứ nhất, khiến đại địa chấn động.
Lại nữa, này Ānanda, có Sa-môn hay Bà-la-môn có thần thông, tâm được tự tại hay hàng chư thiên có đại thần thông, có đại uy lực; những vị này tu tập địa tưởng có hạn, thủy tưởng vô lượng, vị ấy có thể khiến quả đất này rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Này Ānanda, đó là nhân thứ hai, duyên thứ hai, khiến đại địa chấn động.
Lại nữa, này Ānanda, khi Bồ-tát từ bỏ thân chư thiên Tusita (Đâu-suất), chánh niệm, tỉnh giác, nhập vào mẫu thai, khi ấy quả đất này rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Đó là nhân thứ ba, duyên thứ ba, khiến đại địa chấn động.
Lại nữa, này Ānanda, khi Bồ-tát chánh niệm, tỉnh giác, ra khỏi mẫu thai, khi ấy quả đất này rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Này Ānanda, đó là nhân thứ tư, duyên thứ tư, khiến đại địa chấn động.
Lại nữa, này Ānanda, khi Như Lai chứng ngộ Vô thượng Chánh đẳng giác, khi ấy quả đất này rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Đó là nhân thứ năm, duyên thứ năm, khiến đại địa chấn động.
Lại nữa, này Ānanda, khi Như Lai chuyển bánh xe pháp, khi ấy quả đất này rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Đó là nhân thứ sáu, duyên thứ sáu, khiến đại địa chấn động.
Lại nữa, này Ānanda, khi Như Lai chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ, không duy trì mạng sống [thọ hành], khi ấy quả đất này rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Đó là nhân thứ bảy, duyên thứ bảy, khiến đại địa chấn động.
Lại nữa, này Ānanda, khi Như Lai nhập Vô dư Niết-bàn, khi ấy quả đất này rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Đó là nhân thứ tám, duyên thứ tám, khiến đại địa chấn động.
Này Ānanda, do tám nhân này, tám duyên này khiến đại địa chấn động.
Tham khảo
103 Tham chiếu: Tăng. 增 (T.02. 0125.42.5. 0753c11); Địa động kinh 地動經 (T.01. 0026.36. 0477b23).
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.