Tam tạng Thánh điển PGVN 04 » Tam tạng Thượng Tọa bộ 04 »
Kinh Tăng Chi Bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
Phật giáo nguyên thủy/Kinh tạng Pali/Kinh Tăng Chi Bộ/Chương VIII. Tám Pháp (Aṭṭhakanipāta)/VII. Phẩm Đất rúng động (Bhūmicālavagga)
IV. KINH TẠI GAYĀSĪSA (Gayāsīsasutta)94 (A. IV. 302)
64. Một thời, Thế Tôn trú ở Gayāsīsa. Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo!
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
– Này các Tỷ-kheo, trước khi Ta giác ngộ, chưa thành Chánh đẳng giác, còn là Bồ-tát, Ta tưởng tri ánh sáng,95 Ta không thấy sắc.Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ: “Nếu Ta có thể tưởng tri ánh sáng và Ta có thể thấy được các sắc, như vậy, tri kiến này96 của Ta được thanh tịnh hơn lên.” Rồi này các Tỷ-kheo, sau một thời gian Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, Ta tưởng tri ánh sáng và thấy được các sắc, nhưng Ta không giao thiệp với chư thiên ấy, không nói chuyện, không thảo luận.
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau: “Nếu Ta có thể tưởng tri ánh sáng, có thể thấy được các sắc, có thể giao thiệp với chư thiên ấy, có thể nói chuyện, có thể thảo luận, như vậy, tri kiến này của Ta được thanh tịnh hơn lên.” Và này các Tỷ-kheo, sau một thời gian Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, Ta tưởng tri ánh sáng và thấy được các sắc, và cùng chư thiên ấy giao thiệp, nói chuyện và thảo luận. Nhưng Ta không biết về các chư thiên ấy: “Chư thiên này thuộc về thiên chúng này, thuộc về thiên chúng này.”
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau: “Nếu Ta tưởng tri ánh sáng, thấy được các sắc, giao thiệp với chư thiên ấy, nói chuyện, thảo luận với chư thiên ấy và biết được về chư thiên ấy: ‘Chư thiên này thuộc về thiên chúng này, thuộc về thiên chúng này’, như vậy, tri kiến này của Ta được thanh tịnh hơn lên.”
Rồi này các Tỷ-kheo, sau một thời gian, Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, Ta tưởng tri ánh sáng và thấy được các sắc, giao thiệp, nói chuyện, thảo luận với chư thiên ấy, biết được: “Chư thiên này thuộc về thiên chúng này, thuộc về thiên chúng này”, nhưng Ta không biết được chư thiên ấy: “Chư thiên này do quả dị thục của nghiệp này, chết từ đây sanh ra tại chỗ ấy.”
... Ta biết được: “Chư thiên này do quả dị thục của nghiệp này, chết từ đây sanh ra tại chỗ ấy”, nhưng Ta không biết được chư thiên ấy: “Chư thiên này, do đồ ăn như thế này, cảm thọ khổ lạc như thế này.”
... Ta biết được: “Chư thiên này, do đồ ăn như thế này, cảm thọ khổ lạc như thế này”, nhưng Ta không biết được chư thiên ấy: “Chư thiên này, tuổi thọ dài như thế này, tồn tại lâu dài như thế này.”
... Ta biết được: “Chư thiên này, tuổi thọ dài như thế này, tồn tại lâu dài như thế này”, nhưng Ta không biết được chư thiên ấy: “Trước đây Ta có cùng ở với chư thiên này, hay trước đây Ta không cùng ở với chư thiên này.”
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau: “Nếu Ta nhận thức được ánh sáng; thấy được các sắc; cùng với chư thiên ấy giao thiệp, nói chuyện, thảo luận; Ta có thể biết được chư thiên ấy: ‘Chư thiên này thuộc về thiên chúng này, thuộc về thiên chúng này’; Ta có thể biết được chư thiên ấy: ‘Chư thiên này, do quả dị thục của nghiệp này, chết tại chỗ này, sanh tại chỗ ấy’; Ta có thể biết được chư thiên ấy: ‘Chư thiên này, do ăn đồ ăn như thế này, cảm thọ khổ lạc như thế này’; Ta có thể biết được chư thiên ấy: ‘Chư thiên này, tuổi thọ dài như thế này, tồn tại lâu dài như thế này’; và Ta có thể biết được chư thiên ấy: ‘Chư thiên này, trước đây Ta có cùng ở với chư thiên này, hay trước đây Ta không cùng ở với chư thiên này.’ Như vậy, tri kiến này của Ta được thanh tịnh hơn trước.”
Này các Tỷ-kheo, sau một thời gian sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần; Ta tưởng tri ánh sáng; Thấy được các sắc; Ta giao thiệp, nói chuyện, thảo luận với các chư thiên ấy; Ta biết được chư thiên ấy: “Chư thiên này thuộc thiên chúng này, thuộc thiên chúng này”; Ta biết được chư thiên ấy: “Chư thiên này, do quả dị thục của nghiệp này, chết tại chỗ này, sanh tại chỗ ấy”; Ta biết được chư thiên ấy: “Chư thiên này, do ăn đồ ăn như thế này, cảm thọ khổ lạc như thế này”; Ta biết được chư thiên ấy: “Chư thiên này, tuổi thọ dài như thế này, tồn tại lâu dài như thế này”; và Ta biết được chư thiên ấy: “Chư thiên này, trước đây Ta có cùng ở với chư thiên này, hay trước đây Ta không có ở cùng với chư thiên này.”
Này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào tri kiến gồm có tám diễn tiến và thuộc thượng giới thiên này không được khéo thanh tịnh nơi Ta, thời Ta không có xác chứng trong thế giới chư Thiên với Ma giới, Phạm thiên giới, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư thiên và loài người rằng Ta đã chứng ngộ Vô thượng Chánh đẳng giác.
Này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào tri kiến gồm có tám diễn tiến và thuộc thượng giới thiên này được khéo thanh tịnh nơi Ta, thời Ta có xác chứng trong thế giới chư Thiên với Ma giới, Phạm thiên giới, với quần chúng Sa-môn, Bà- la-môn, chư thiên và loài người rằng Ta đã chứng ngộ Vô thượng Chánh đẳng giác. Tri kiến khởi lên nơi Ta: “Bất động là tâm giải thoát của Ta. Đây là đời sống cuối cùng, không còn tái sanh nữa.”
Tham khảo
94 Tham chiếu: Thiên kinh 天經 (T.01. 0026.73. 0539b19).
95 Obhāsaññeva kho sañjānāmi. Xem M. III. 157. Bốn loại ánh sáng được đề cập trong A. II. 139.
96 Ñāṇadassana. AA. IV. 143: Ñāṇadassananti dibbacakkhubhūtaṃ ñāṇasaṅkhātaṃ dassanaṃ (“Tri kiến” nghĩa là sự thấy biết, chứng tri thiên nhãn đang hiện hữu).
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.