Tam tạng Thánh điển PGVN 04 » Tam tạng Thượng Tọa bộ 04 »
Kinh Tăng Chi Bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tăng Chi Bộ/Chương VIII Tám Pháp (Aṭṭhakanipāta)/II. Phẩm Lớn (Mahāvagga)
III. KINH NGỰA THUẦN THỤC (Assājānīyasutta)13 (A. IV. 188)
13. Đầy đủ với tám đức tánh, này các Tỷ-kheo, một con ngựa của vua, hiền thiện, thuần thục, xứng đáng để vua dùng, thuộc quyền sở hữu của vua và được xem như là biểu tượng của vua. Thế nào là tám?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, một con ngựa của vua, hiền thiện, thuần thục, khéo sanh cả hai từ mẫu hệ và phụ hệ, tại phương hướng nào các con ngựa hiền thiện, thuần thục khác sanh trưởng, tại phương hướng ấy, con ngựa ấy được sanh. Họ cho ăn các món ăn gì, ướt hay khô, con ngựa ấy ăn một cách cẩn thận, không có làm rơi rớt. Con ngựa ấy nhàm chán khi phải đứng hay nằm gần phân hay nước tiểu. Con ngựa ấy sống hoan hỷ và dễ dàng sống chung với các con ngựa khác và không làm các con ngựa khác hoảng sợ. Phàm có những gian dối,14 giả dối, xảo trá, quanh co gì, nó nêu rõ như thật cho người đánh xe biết, và người đánh xe cố gắng nhiếp phục nó. Khi đang kéo xe, nó nghĩ: “Hãy để cho các con ngựa khác muốn hay không muốn kéo, còn ta, ta sẽ kéo.” Khi đi, nó đi con đường thẳng. Kiên trì, nó kiên trì cho đến khi mạng sống chấm dứt.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, một con ngựa của vua hiền thiện, thuần thục, xứng đáng để vua dùng, thuộc quyền sở sữu của vua, và được xem như là biểu tượng của vua.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, thành tựu tám pháp này, Tỷ-kheo xứng đáng được cung kính... là vô thượng phước điền ở đời. Thế nào là tám?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo giữ giới, sống chế ngự với sự chế ngự của Giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học pháp. Phàm nhận các món đồ ăn gì, thô hay tế, vị ấy ăn một cách cẩn thận, không có oán thán gì. Vị ấy có nhàm chán, nhàm chán thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác, nhàm chán sự thành tựu các pháp ác, bất thiện. Vị ấy hoan hỷ và dễ dàng sống chung với các Tỷ-kheo khác và không làm các Tỷ-kheo khác hoảng sợ. Phàm có những gian dối, giả dối, xảo trá, quanh co gì, vị ấy như thật nêu rõ cho vị Đạo sư hay các đồng Phạm hạnh có trí cố gắng để nhiếp phục. Trong khi học tập, vị ấy khởi lên ý nghĩ: “Hãy để cho các Tỷ- kheo khác học tập hay không học tập, còn ta, ta sẽ học tập ở đây.” Khi đi, vị ấy đi con đường thẳng, tại đây, con đường thẳng này tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Vị ấy sống tinh cần, nghĩ rằng: “Dầu chỉ có da, gân hay xương còn lại, dầu thịt và máu có khô cạn trong thân, điều mà sự kiên trì của con người, sự tinh tấn của con người, sự nỗ lực của con người có thể đạt được, nếu chưa đạt được thời tinh tấn không có chấm dứt.”
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là vô thượng phước điền ở đời.
13 Tham chiếu: Tạp. 雜 (T.02. 0099.925. 0235b22); Biệt Tạp. 別雜 (T.02. 0100.150. 0430a28); Tạp. 雜
(T.02. 0099.924. 0235a06); Biệt Tạp. 別雜 (T.02. 0100.149. 0429c11).
14 Xem A. V. 167; M. I. 340.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.