Tam tạng Thánh điển PGVN 04 » Tam tạng Thượng Tọa bộ 04 »
Kinh Tăng Chi Bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tăng Chi Bộ/ CHƯƠNG VII BẢY PHÁP (SATTAKANIPĀTA)/ VI. PHẨM KHÔNG TUYÊN BỐ (ABYĀKATAVAGGA)
VIII. KINH NGỦ GỤC (Pacalāyamānasutta)106 (A. IV. 85)
61. Như vầy tôi nghe.
Một thời, Thế Tôn trú giữa dân chúng Bhaggā, tại núi Suṃsumāragiri, rừng Bhesakaḷā, ở Vườn Nai. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahāmoggallāna đang ngồi ngủ gục, trong làng Kallavāḷaputta, giữa dân chúng Magadha. Thế Tôn với Thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, thấy Tôn giả Mahāmoggallāna đang ngồi ngủ gục, trong làng Kallavāḷaputta, giữa dân chúng Magadha. Thấy vậy, như nhà lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, cũng vậy, Thế Tôn biến mất giữa dân chúng Bhaggā, tại núi Suṃsumāragiri, rừng Bhesakaḷā, ở Vườn Nai, rồi hiện ra trước mặt Tôn giả Mahāmoggallāna, tại làng Kallavāḷaputta, giữa dân chúng Magadha. Thế Tôn ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn; sau khi ngồi, Thế Tôn nói với Tôn giả Mahāmoggallāna:
– Này Moggallāna, có phải ông ngủ gục? Này Moggallāna, có phải ông ngủ gục?
– Thưa phải, bạch Thế Tôn.
– Do vậy, này Moggallāna, khi nào ông trú có tưởng và thụy miên xâm nhập ông, chớ có tác ý đến nó, chớ có tưởng nhiều đến nó.107 Sự kiện này có xảy ra, do ông trú như vậy, thụy miên ấy được đoạn diệt.
Nếu ông trú như vậy và thụy miên ấy không được đoạn diệt, thời này Moggallāna, với tâm của ông, hãy tùy tầm, tùy tứ, với ý hãy tùy quán pháp như đã được nghe, như đã được học thuộc lòng. Sự kiện này có xảy ra, do ông trú như vậy, thụy miên ấy được đoạn diệt.
Nếu ông trú như vậy và thụy miên ấy không được đoạn diệt, thời này Moggallāna, ông hãy đọc tụng pháp một cách rộng rãi như đã được nghe, như đã được học thuộc lòng. Sự kiện này có xảy ra, do ông trú như vậy, thụy miên ấy được đoạn diệt.
Nếu ông trú như vậy và thụy miên ấy không được đoạn diệt, thời này Moggallāna, ông hãy kéo hai lỗ tai của ông, và lấy tay xoa bóp tay chân. Sự kiện này có xảy ra, do ông trú như vậy, thụy miên ấy được đoạn diệt.
Nếu ông trú như vậy và thụy miên ấy không được đoạn diệt, thời này Moggallāna, ông hãy từ chỗ ngồi, đứng dậy lấy nước chùi mắt, nhìn về phía chân trời và nhìn lên các sao lấp lánh. Sự kiện này có xảy ra, do ông trú như vậy, thụy miên ấy được đoạn diệt.
Nếu ông trú như vậy và thụy miên ấy không được đoạn diệt, thời này Moggallāna, ông hãy tác ý đến quang tưởng và an trú vào tưởng ban ngày. Như ban ngày, ban đêm cũng vậy; như ban đêm, ban ngày cũng vậy. Như vậy, với tâm rộng mở, không có hạn chế, ông phải tu tập cho tâm được sáng chói. Sự kiện này có xảy ra, do ông trú như vậy, thụy miên ấy được đoạn diệt.
Nếu ông trú như vậy và thụy miên ấy không được đoạn diệt, thời này Moggallāna, ông hãy trú tâm trên chỗ kinh hành với tưởng trước mặt và sau lưng,108 với căn hướng nội, với ý không hướng ngoại. Sự kiện này có xảy ra, do ông trú như vậy thụy miên ấy được đoạn diệt.
Nếu ông trú như vậy và thụy miên ấy không được đoạn diệt, thời này Moggallāna, ông hãy nằm như dáng nằm con sư tử về phía hông bên phải, hai chân gác lên nhau, chánh niệm tỉnh giác, tác ý với tưởng thức dậy.109 Và khi thức dậy, này Moggallāna, ông hãy thức dậy thật mau, nghĩ rằng: “Ta sẽ trú, không có chú tâm đến lạc nằm ngủ, lạc nằm xuống một bên, lạc thụy miên.” Như vậy, này Moggallāna, ông cần phải học tập.
Do vậy, này Moggallāna, hãy học tập như sau: “Không say sưa trong cao mạn,110 ta sẽ đi đến thăm các gia đình.” Này Moggallāna, như vậy các ông cần phải học tập. Này Moggallāna, nếu Tỷ-kheo say sưa trong cao mạn đi đến thăm các gia đình; trong các gia đình, này Moggallāna, người ta có nhiều công việc phải làm; do vậy, người ta không có tác ý đến Tỷ-kheo đã đi đến. Ở đây, Tỷ-kheo ấy có thể suy nghĩ: “Nay, ai đã chia rẽ ta với gia đình này. Các người này không ưa thích gì ta.”111 Như vậy, do không được gì, vị ấy nản chí,112 vị ấy dao động; do dao động, vị ấy không phòng hộ; do không phòng hộ, tâm rời xa thiền định.
Do vậy, này Moggallāna, hãy học tập như sau: “Ta sẽ không nói lời khiêu khích.”113 Như vậy, này Moggallāna, ông cần phải học tập. Khi nào có lời khiêu khích, này Moggallāna, thời chờ đợi là nhiều lời qua tiếng lại; khi nào có nhiều lời qua tiếng lại, thời có dao động. Với người có dao động, thời không có phòng hộ; với người không có phòng hộ, tâm rời xa thiền định.
Này Moggallāna, Ta không tán thán tất cả sự liên hệ nhưng không phải Ta không tán thán tất cả sự liên hệ. Thật vậy, này Moggallāna, Ta không tán thán các vị xuất gia có sự liên hệ với các gia chủ. Nhưng với các trú xứ ít tiếng ồn, ít tiếng động, thoát khỏi hơi thở của nhiều người, những chỗ ở cô độc xa vắng loài người, thích hợp cho đời sống thiền tịnh,114 Ta tán thán sự liên hệ với những trú xứ như vậy.
Được nghe nói như vậy, Tôn giả Mahāmoggallāna bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, cho đến như thế nào, tóm tắt lại,115 một Tỷ-kheo được giải thoát nhờ sự đoạn diệt khát ái (taṇhā), đạt đến mục đích cứu cánh,116 đạt đến cứu cánh an ổn khỏi ách nạn, đạt đến cứu cánh Phạm hạnh, đạt đến cứu cánh của cứu cánh, trở thành tối thượng giữa chư thiên và loài người?
– Này Moggallāna, ở đây, Tỷ-kheo được nghe như sau: “Không nên thiên chấp tất cả pháp.” Này Moggallāna, và Tỷ-kheo được nghe như sau: “Không nên thiên chấp tất cả pháp”. Vị ấy thắng tri tất cả pháp; do thắng tri tất cả pháp, vị ấy liễu tri tất cả pháp; do liễu tri tất cả pháp, phàm có cảm thọ gì được cảm giác lạc, khổ hay không khổ không lạc, vị ấy trú tùy quán vô thường đối với các cảm thọ ấy; vị ấy trú tùy quán ly tham; vị ấy trú tùy quán đoạn diệt; vị ấy trú tùy quán từ bỏ. Do vị ấy trú tùy quán vô thường trong các cảm thọ, do vị ấy trú tùy quán ly tham, do vị ấy trú tùy quán đoạn diệt, do vị ấy trú tùy quán từ bỏ, nên không chấp thủ một cái gì ở đời. Do không chấp thủ nên không lo âu. Do không tham đắm nên tự mình nhập Niết-bàn. Vị ấy biết rõ: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa.” Này Moggallāna, cho đến như vậy, tóm tắt lại, một Tỷ-kheo được giải thoát nhờ sự đoạn diệt khát ái, đạt đến mục đích cứu cánh, đạt đến cứu cánh an ổn khỏi các ách nạn, đạt đến cứu cánh Phạm hạnh, đạt đến cứu cánh của cứu cánh, trở thành tối thượng giữa chư thiên và loài người.
Tham khảo:
106 Tham chiếu: Trưởng lão thượng tôn thùy miên kinh 長老上尊睡眠經 (T.01. 0026.83. 0559b27); Ly thùy kinh 離睡經 (T.01. 0047. 0837a06).
107 Taṃ saññaṃ mā manasākāsi, taṃ saññaṃ mā bahulamakāsi.
108 Pacchāpuresaññī. AA. IV. 42: Pacchāpuresaññīti purato ca pacchato ca abhiharaṇasaññāya saññāvā (“Với tưởng trước mặt và sau lưng” nghĩa là có tưởng, hướng tưởng lại gần từ phía trước và từ phía sau). Xem GS. III. 21 về thiền định trên chỗ kinh hành.
109 Xem D. II. 134; M. III. 3.
110 Uccāsoṇḍaṃ paggahetvā. AA. IV. 42: Soṇḍanti mānasoṇḍaṃ (“Say sưa” nghĩa là say sưa trong “mạn”).
111 Virattarūpādānī. Cần phải viết là virattarūpā’dān’ime.
112 Maṅkubhāvo. AA. IV. 42: Maṅkubhāvoti nittejatā domanassatā (“Nản chí” là trạng thái ưu phiền, không còn sức lực).
113 Viggāhikakathā. Xem D. I. 8; M. II. 3; S. III. 12; Sn. 181.
114 Paṭisallānasāruppāni. D. III. 38; M. II. 118 và III. 13; Vin. I. 39;
115 Xem M. I. 251.
116 Accantaniṭṭho. Xem A. I. 291; D. II. 283; S. III. 13.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.