Tam tạng Thánh điển PGVN 04 » Tam tạng Thượng Tọa bộ 04 »
Kinh Tăng Chi Bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tăng Chi Bộ/ CHƯƠNG VII BẢY PHÁP (SATTAKANIPĀTA)/ VI. PHẨM KHÔNG TUYÊN BỐ (ABYĀKATAVAGGA)
I. KINH KHÔNG TUYÊN BỐ (Abyākatasutta)90 (A. IV. 67)
54. Bấy giờ, một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, đối với vị Thánh đệ tử có nghe
nhiều, nghi ngờ không khởi lên đối với những vấn đề không được tuyên bố?91
– Này Tỷ-kheo, do kiến diệt (diṭṭhinirodhā), với vị Thánh đệ tử có nghe nhiều, nghi ngờ không khởi lên đối với những vấn đề không được tuyên bố: “Sau khi chết, Như Lai có tồn tại”, này Tỷ-kheo, là một tà kiến; “sau khi chết, Như Lai không tồn tại”, này Tỷ-kheo, là một tà kiến; “sau khi chết, Như Lai có tồn tại và không tồn tại”, này Tỷ-kheo, là một tà kiến; “sau khi chết, Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại”, này Tỷ-kheo, là một tà kiến.
Này Tỷ-kheo, kẻ phàm phu không có nghe nhiều, không tuệ tri kiến, không tuệ tri kiến tập khởi, không tuệ tri kiến đoạn diệt, không tuệ tri con đường đưa đến kiến đoạn diệt; kiến của người ấy tăng trưởng; người ấy không giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não; Ta nói rằng: “Người ấy không thoát khỏi khổ.”
Này Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử có nghe nhiều, tuệ tri kiến, tuệ tri kiến tập khởi, tuệ tri kiến đoạn diệt, tuệ tri con đường đưa đến kiến đoạn diệt; kiến của người ấy tiêu diệt; người ấy giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não; Ta nói rằng: “Người ấy thoát khỏi khổ.”
Này Tỷ-kheo, do biết vậy, do thấy vậy, vị Thánh đệ tử có nghe nhiều không có tuyên bố: “Sau khi chết, Như Lai có tồn tại”; không có tuyên bố: “Sau khi chết, Như Lai không có tồn tại”; không có tuyên bố: “Sau khi chết, Như Lai có tồn tại và không tồn tại”; không có tuyên bố: “Sau khi chết, Như Lai không tồn tại và không không tồn tại.”
Do biết vậy, do thấy vậy, này Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử có nghe nhiều, có một thái độ không tuyên bố đối với những vấn đề không được tuyên bố. Do biết vậy, do thấy vậy, này Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử không có sợ hãi, không có rung động, không có chấn động, không rơi vào hoảng sợ đối với các vấn đề không được tuyên bố.
“Sau khi chết, Như Lai có tồn tại”, này Tỷ-kheo, thuộc về khát ái, thuộc về tưởng, thuộc về tư duy, thuộc về lý luận, thuộc về chấp thủ, thuộc về truy hối.
“Sau khi chết, Như Lai không tồn tại”, này Tỷ-kheo, thuộc về khát ái, thuộc về tưởng, thuộc về tư duy, thuộc về lý luận, thuộc về chấp thủ, thuộc về truy hối.
“Sau khi chết, Như Lai có tồn tại và không tồn tại”, này Tỷ-kheo, thuộc về khát ái, thuộc về tưởng, thuộc về tư duy, thuộc về lý luận, thuộc về chấp thủ, thuộc về truy hối.
“Sau khi chết, Như Lai không tồn tại và không không tồn tại”, này Tỷ-kheo, thuộc về khát ái, thuộc về tưởng, thuộc về tư duy, thuộc về lý luận, thuộc về chấp thủ, thuộc về truy hối.
Này Tỷ-kheo, kẻ phàm phu nghe ít, không tuệ tri truy hối, không tuệ tri truy hối tập khởi, không tuệ tri truy hối đoạn diệt, không tuệ tri con đường đưa đến truy hối đoạn diệt; truy hối của người ấy tăng trưởng; người ấy không giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não; Ta nói rằng: “Người ấy không thoát khỏi khổ.”
Và này Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử có nghe nhiều, tuệ tri truy hối, tuệ tri truy hối tập khởi, tuệ tri truy hối đoạn diệt, tuệ tri con đường đưa đến truy hối đoạn diệt; truy hối của vị ấy bị tiêu diệt; vị ấy giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não; Ta nói rằng: “Người ấy thoát khỏi khổ.”
Do biết vậy, do thấy vậy, này Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều không tuyên bố: “Sau khi chết, Như Lai có tồn tại”; không tuyên bố: “Sau khi chết, Như Lai không tồn tại”; không tuyên bố: “Sau khi chết, Như Lai có tồn tại và không tồn tại”; không tuyên bố: “Sau khi chết, Như Lai không tồn tại và không không tồn tại.”
Do biết vậy, do thấy vậy, này Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử không có sợ hãi, không có rung động, không có chấn động, không rơi vào hoảng sợ đối với các vấn đề không được tuyên bố.
Này các Tỷ-kheo, đây là nhân, đây là duyên, đối với vị Thánh đệ tử có nghe nhiều, nghi ngờ không khởi lên đối với những vấn đề không được tuyên bố.
Tham khảo:
90 Tham chiếu: Kiến kinh 見經 (T.01. 0026.220. 0803c08); Phật thuyết Tà kiến kinh 佛說邪見經 (T.01. 0093. 0917a07).
91 Abyākata. Xem A. V. 193; D. I. 188; M. I. 426; S. IV. 375.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.