Viện Nghiên Cứu Phật Học

Phật giáo nguyên thủy/Kinh tạng Pali/Kinh Tăng Chi Bộ/Chương VI Sáu Pháp (Chakkanipāta)/Năm mươi kinh thứ nhất/IV. Phẩm Chư thiên (Devatāvagga)

 

XII. KINH TÔN GIẢ NĀGITA (Nāgitasutta)51 (A. III. 341) 

      42. Như vậy tôi nghe. 

    Một thời, Thế Tôn đang bộ hành giữa các người Kosala, cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến một làng Bà-la-môn tên là Icchānaṅgala. Tại đấy, Thế Tôn trú ở Icchānaṅgala, trong khóm rừng Icchānaṅgala. Các Bà-la-môn gia chủ ở Icchānaṅgala được nghe: “Tôn giả Gotama là Thích tử, xuất gia từ gia đình họ Thích, đã đến Icchānaṅgala, trú ở Icchānaṅgala trong khóm rừng Icchānaṅgala. Về Tôn giả Gotama ấy, tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi: “Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Với thắng trí, Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này cùng với Thiên giới, Phạm thiên giới, với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài trời và người. Sau khi đã chứng ngộ, Ngài tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ; Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có văn, có nghĩa; Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ trong sạch. Tốt đẹp thay, sự chiêm ngưỡng một vị A-la-hán như vậy!” Rồi các Bà-la-môn gia chủ ở Icchānaṅgala, sau khi đêm ấy đã mãn, mang theo rất nhiều đồ ăn loại cứng và loại mềm, đi đến khóm rừng Icchānaṅgala; sau khi đến, đứng ở ngoài cổng vào, cao tiếng và lớn tiếng. 

      Lúc bấy giờ, Tôn giả Nāgita là thị giả của Thế Tôn. Rồi Thế Tôn bảo Tôn giả Nāgita:

    – Này Nāgita, những ai đã cao tiếng và lớn tiếng như những người đánh cá đang giết hại cá?   

    – Các người ấy, bạch Thế Tôn, là các Bà-la-môn gia chủ trú ở Icchānaṅgala đang đứng ở cổng ngoài khu vườn, mang theo rất nhiều đồ ăn loại cứng và loại mềm cúng dường cho Thế Tôn và chúng Tăng.

      – Này Nāgita, Ta không có liên hệ gì với danh vọng và danh vọng không có liên hệ gì với Ta. Này Nāgita, những ai tìm được có khó khăn, tìm được có mệt nhọc, tìm được có phí sức an ổn lạc, viễn ly lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc mà Ta đã tìm được không khó khăn, tìm được không mệt nhọc, tìm được không phí sức, hãy để họ thọ hưởng lạc như phân ấy, thụy miên lạc, lợi dưỡng, cung kính, danh văn lạc.

    – Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy chấp nhận! Thiện Thệ hãy chấp nhận! Nay Thế Tôn sẽ đi đến chỗ nào, tại chỗ ấy các Bà-la-môn gia chủ ở thị trấn và ở quốc độ ấy cũng sẽ đi đến với tâm hướng về cúng dường. Ví như trời mưa nặng hạt, và nước được chảy tùy theo chiều dốc; cũng vậy, bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn sẽ đi đến chỗ nào, tại chỗ ấy các Bà-la-môn gia chủ ở thị trấn và ở quốc độ cũng sẽ đi đến với tâm hướng về cúng dường. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn, do vì giới hạnh và trí tuệ của Thế Tôn! 

    – Này Nāgita, Ta không có liên hệ gì với danh vọng và danh vọng không có liên hệ gì với Ta. Này Nāgita, những ai tìm được có khó khăn, tìm được có mệt nhọc, tìm được có phí sức an ổn lạc, viễn ly lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc mà Ta đã tìm được không khó khăn, tìm được không mệt nhọc, tìm được không phí sức, hãy để họ thọ hưởng lạc như phân ấy, thụy miên lạc, lợi dưỡng, cung kính, danh văn lạc. 

      Ở đây, này Nāgita, Ta thấy một Tỷ-kheo ngồi thiền định tại trú xứ ở cuối làng. Này Nāgita, về vị ấy, Ta suy nghĩ như sau: “Nay có người coi khu vườn hay người Sa-di phá phách vị Tỷ-kheo này, làm cho vị này xuất khỏi thiền định.” Do vậy, này Nāgita, Ta không có hoan hỷ với trú xứ của vị ấy.

      Ở đây, này Nāgita, Ta thấy một Tỷ-kheo đang ngồi ngủ gục ở trong rừng. Này Nāgita, Ta suy nghĩ về vị ấy như sau: “Nay vị Tỷ-kheo này, sau khi đoạn trừ ngủ nghỉ và mệt nhọc, sẽ tác ý về rừng, đạt được nhất tâm.” Do vậy, này Nāgita, Ta hoan hỷ với trú xứ tại rừng của Tỷ-kheo ấy. 

    Ở đây, này Nāgita, Ta thấy Tỷ-kheo sống ở rừng, ngồi không thiền định trong rừng. Này Nāgita, đối với vị ấy, Ta suy nghĩ: “Nay Tỷ-kheo này sẽ thiền định được tâm không thiền định, hay sẽ bảo vệ tâm đã được thiền định.” Do vậy, này Nāgita. Ta hoan hỷ về trú xứ tại rừng của Tỷ-kheo ấy. 

     Ở đây, này Nāgita, Ta thấy Tỷ-kheo sống ở rừng, ngồi với tâm thiền định ở rừng. Này Nāgita, đối với vị ấy, Ta suy nghĩ: “Nay Tỷ-kheo này sẽ giải thoát tâm chưa được giải thoát, hay sẽ bảo vệ tâm đã được giải thoát.” Do vậy, này Nāgita, Ta hoan hỷ về trú xứ tại rừng của Tỷ-kheo ấy. 

    Ở đây, này Nāgita, Ta thấy Tỷ-kheo sống ở cuối làng, nhận được vật dụng như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh; thích thú với các lợi dưỡng, cung kính, danh văn ấy, bỏ phế thiền tịnh, bỏ phế các trú xứ rừng núi, cao nguyên xa vắng, đi xuống làng, thị trấn, kinh đô để lo nuôi sống. Do vậy, này Nāgita, Ta không có hoan hỷ về trú xứ cuối làng của Tỷ-kheo ấy. 

      Ở đây, này Nāgita, Ta thấy Tỷ-kheo sống ở rừng, nhận được các vật dụng cần thiết như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh; nhưng chặn đứng các lợi dưỡng, cung kính, danh văn ấy, không bỏ phế thiền tịnh, không bỏ phế các trú xứ rừng núi, cao nguyên xa vắng. Do vậy, này Nāgita, Ta hoan hỷ về trú xứ tại rừng của Tỷ-kheo ấy. 

       Nhưng khi Ta đang bước đi trên con đường; trước mặt, Ta không thấy ai; sau lưng, Ta không thấy ai; trong khi ấy, Ta cảm thấy an ổn, này Nāgita, cho đến vấn đề đi đại, tiểu tiện.

Tham khảo

51 Tham chiếu: Tạp. 雜 (T.02. 0099.1250-1251. 0343b07-0344a08).

 

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.