Tam tạng Thánh điển PGVN 04 » Tam tạng Thượng Tọa bộ 04 »
Kinh Tăng Chi Bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tăng Chi Bộ/ CHƯƠNG V NĂM PHÁP (PAÑCAKANIPĀTA)/ XX. PHẨM BÀ-LA-MÔN (BRĀHMAṆAVAGGA)
II.KINH BÀ-LA-MÔN DOṆA (Doṇabrāhmaṇasutta)190 (A. III. 223)
192.Rồi Bà-la-môn Doṇa đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm. Sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Doṇa bạch Thế Tôn:
– Thưa Tôn giả Gotama, tôi có nghe như sau: “Sa-môn Gotama không đảnh lễ, hay không đứng dậy, hay không mời ngồi ghế các vị Bà-la-môn già yếu, tuổi lớn, trưởng lão, đời đã được trải qua, đã đến đoạn cuối cuộc đời.” Thưa Tôn giả Gotama, sự thể là như vậy. Tôn giả Gotama không đảnh lễ, hay không đứng dậy, hay không mời ngồi ghế các vị Bà-la-môn già yếu, tuổi lớn, trưởng lão, đời đã được trải qua, đã đến đoạn cuối cuộc đời; như vậy, thưa Tôn giả Gotama, thật là không tốt đẹp.
– Này Doṇa, ông có tự cho mình là Bà-la-môn không?
– Thưa Tôn giả Gotama, nếu có ai nói một cách chơn chánh, vị ấy phải nói rằng: “Vị Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời Tổ phụ, không một vết nhơ nào, một gièm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh; là nhà phúng tụng, nhà trì chú; thông hiểu ba tập Vệ-đà với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và lịch sử truyền thống là thứ năm; thông hiểu ngữ pháp và văn phạm; biện tài về Thuận thế luận (Tự nhiên học) và tướng của vị Đại nhân.”191 Thưa Tôn giả Gotama, nói về tôi, nói một cách chơn chánh là nói như vầy, thưa Tôn giả Gotama, tôi là Bà-la-môn, thiện sanh cả từ mẫu hệ đến phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời Tổ phụ, không một vết nhơ nào, một gièm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh; là nhà phúng tụng, nhà trì chú; thông hiểu ba tập Vệ-đà với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và lịch sử truyền thống là thứ năm; thông hiểu ngữ pháp và văn phạm; biện tài về Thuận thế luận và tướng của vị Đại nhân.
– Này Doṇa, có phải các vị Bà-la-môn thời xưa, những vị ẩn sĩ giữa các Bà- la-môn, những tác giả các chú thuật, những nhà tụng tán các chú thuật đã hát, đã nói lên, đã sưu tầm những Thánh cú mà nay những Bà-la-môn hiện tại cũng hát lên, nói lên, đọc lên giống như các vị trước đã làm? Những vị ẩn sĩ ấy tên là Aṭṭhaka, Vāmaka, Vāmadeva, Vessāmitta, Yamadaggi, Aṅgīrasa, Bhāradvāja, Vāseṭṭha, Kassapa, Bhagu.192 Những vị ấy tuyên bố có năm hạng Bà-la-môn này: “Đồng đẳng với Phạm thiên, đồng đẳng với chư thiên, các vị biết giới hạn, các vị vượt lên giới hạn và thứ năm là Bà-la-môn bị vứt bỏ.” Này Doṇa, ông là ai giữa các vị ấy?
– Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi không biết năm hạng Bà-la-môn này. Nhưng chúng tôi biết chúng tôi là Bà-la-môn. Lành thay, nếu Tôn giả Gotama thuyết pháp cho tôi để tôi biết được năm hạng Bà-la-môn này!
– Vậy này Bà-la-môn, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.
– Thưa vâng, Tôn giả.
Bà-la-môn Doṇa vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
– Thế nào, này Doṇa, là Bà-la-môn đồng đẳng với Phạm thiên?
Ở đây, này Doṇa, vị Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu hệ đến phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời Tổ phụ, không một vết nhơ nào, một gièm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh. Vị ấy trong bốn mươi tám năm sống Phạm hạnh đồng trinh, học tập chân ngôn (chú thuật). Sau khi sống bốn mươi tám năm Phạm hạnh đồng trinh, sau khi học tập chân ngôn, vị ấy tìm kiếm tài sản Đạo sư cho bậc Đạo sư một cách đúng pháp, không phải phi pháp. Ở đây, này Doṇa, pháp là gì? Không phải nhờ cày bừa,193 không phải nhờ buôn bán, không phải nhờ chăn bò, không phải do cung tên, không phải do làm người của vua, không phải do một nghề gì khác, hoàn toàn chỉ do khất thực, không khinh thường bình bát của người khất sĩ. Sau khi giao lại tài sản Đạo sư cho bậc Đạo sư, sau khi cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, vị ấy xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Vị ấy xuất gia như vậy, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ,194 cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú, biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. ... với tâm câu hữu với bi... với hỷ... với xả, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú, biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Vị ấy, sau khi tu tập bốn Phạm trú này, khi thân hoại mệnh chung, được sanh thiện thú, Phạm thiên giới. Như vậy, này Doṇa, là vị Bà-la-môn đồng đẳng với Phạm thiên.
Và này Doṇa, thế nào là Bà-la-môn đồng đẳng với chư thiên?
Ở đây, này Doṇa, Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời Tổ phụ, không một vết nhơ nào, một gièm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh. Vị ấy trong bốn mươi tám năm sống Phạm hạnh đồng trinh, học tập chân ngôn. Sau khi sống bốn mươi tám năm Phạm hạnh đồng trinh, sau khi học tập chân ngôn, vị ấy tìm kiếm tài sản Đạo sư cho vị Đạo sư một cách đúng pháp, không phải phi pháp. Ở đây, này Doṇa, pháp là gì? Không phải nhờ cày bừa, không phải nhờ buôn bán, không phải nhờ chăn bò, không phải do cung tên, không phải do làm người của vua, không phải do một nghề gì khác, hoàn toàn chỉ do khất thực, không khinh thường bình bát của người khất sĩ. Sau khi giao lại tài sản Đạo sư cho bậc Đạo sư, vị ấy đi tìm vợ một cách đúng pháp, không phải phi pháp. Và này Doṇa, ở đây, pháp là gì? Không phải do mua, không phải do bán, nhưng chỉ với một nữ Bà-la-môn đã được nước tưới lên,195 vị ấy đi đến nữ Bà-la-môn; không đi đến nữ Sát-đế-lỵ, nữ Tỳ-xá, nữ Thủ-đà, nữ Chiên-đà-la, nữ săn bắn, nữ đan tre, nữ làm xe, nữ thổ dân; không đi đến người đàn bà có mang; không đi đến người đàn bà cho con bú; không đi đến người đàn bà trong thời kỳ không thể thụ thai.
Và này Doṇa, vì sao người Bà-la-môn không đi đến người đàn bà có mang? Này Doṇa, nếu người Bà-la-môn đi đến người đàn bà có mang, thời đồng nam hay đồng nữ được sanh hoàn toàn bị ô uế; do vậy, này Doṇa, vị Bà-la-môn không đi đến người đàn bà có mang. Và vì sao, này Doṇa, Bà-la- môn không đi đến người đàn bà cho con bú? Này Doṇa, nếu Bà-la-môn đi đến người đàn bà cho con bú, thời này Doṇa, đồng nam hay đồng nữ bú sữa không được thanh tịnh; do vậy, này Doṇa, vị Bà-la-môn không đi đến người đàn bà cho con bú. Và vì sao, này Doṇa, Bà-la-môn không đi đến người đàn bà trong thời kỳ không thể thụ thai? Này Doṇa, nếu vị Bà-la-môn đi đến người đàn bà trong thời kỳ không thể thụ thai, thời nữ Bà-la-môn ấy trở thành một phương tiện để thỏa lòng dục, để vui đùa, để thỏa thích. Nữ Bà-la-môn đối với nam Bà-la-môn chỉ có mục đích đẻ con. Vị ấy từ dâm dục [đúng pháp] sinh con rồi, liền cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Vị ấy xuất gia như vậy, ly dục, ly pháp bất thiện... chứng đạt và an trú Thiền thứ tư. Vị ấy, sau khi tu tập bốn thiền, sau khi thân hoại mệnh chung, được sanh lên cõi lành, thiên giới, cõi đời này. Như vậy, này Doṇa, là Bà-la- môn đồng đẳng với chư thiên.
Và thế nào, này Doṇa, là một Bà-la-môn có giới hạn?
Ở đây, này Doṇa, Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời Tổ phụ, không một vết nhơ nào, một gièm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh. Vị ấy trong bốn mươi tám năm sống Phạm hạnh đồng trinh, học tập chân ngôn. Sau khi sống bốn mươi tám năm Phạm hạnh đồng trinh, sau khi học tập chân ngôn, vị ấy tìm kiếm tài sản Đạo sư cho vị Đạo sư một cách đúng pháp, không phải phi pháp. Ở đây, này Doṇa, pháp là gì? Không phải nhờ cày bừa, không phải nhờ buôn bán, không phải nhờ chăn bò, không phải nhờ cung tên, không phải do làm người của vua, không phải do một nghề gì khác, hoàn toàn chỉ do khất thực, không khinh thường bình bát của người khất sĩ. Sau khi giao lại tài sản Đạo sư cho bậc Đạo sư, vị ấy đi tìm vợ một cách đúng pháp, không phải phi pháp. Và này Doṇa, ở đây, pháp là gì? Không phải do mua, không phải do bán, nhưng chỉ với một nữ Bà-la-môn đã được nước tưới lên, vị ấy đi đến nữ Bà-la-môn; không đi đến nữ Sát-đế-lỵ, nữ Tỳ-xá, nữ Thủ-đà, nữ Chiên-đà-la, nữ săn bắn, nữ đan tre, nữ làm xe, nữ thổ dân; không đi đến người đàn bà có mang; không đi đến người đàn bà cho con bú; không đi đến người đàn bà trong thời kỳ không thể thụ thai.
Và này Doṇa, vì sao người Bà-la-môn không đi đến người đàn bà có mang? Này Doṇa, nếu vị Bà-la-môn đi đến người đàn bà có mang... Nữ Bà-la-môn đối với nam Bà-la-môn chỉ có mục đích đẻ con. Vị ấy từ dâm dục [đúng pháp] sinh con rồi, do ưa thích con nít, sống trong gia đình, không xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Cho đến sự giới hạn của các Bà-la-môn thời xưa, vị ấy đứng tại đấy, không vượt qua giới hạn ấy. Này Doṇa, do vậy Bà-la-môn được gọi là có giới hạn. Như vậy, này Doṇa, là Bà-la-môn có giới hạn.
Và này Doṇa, thế nào là một Bà-la-môn vượt qua giới hạn?
Ở đây, này Doṇa, Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ... về vấn đề huyết thống thọ sanh. Vị ấy trong bốn mươi tám năm sống Phạm hạnh đồng trinh, học tập chân ngôn. Sau khi sống bốn mươi tám năm Phạm hạnh đồng trinh, sau khi học tập chân ngôn, vị ấy tìm kiếm tài sản Đạo sư cho vị Đạo sư một cách đúng pháp, không phải phi pháp. Ở đây, này Doṇa, pháp là gì? Không phải nhờ cày bừa, không phải nhờ buôn bán, không phải nhờ chăn bò, không phải nhờ cung tên, không phải do làm người của vua, không phải do một nghề gì khác, hoàn toàn chỉ do khất thực, không khinh thường bình bát của người khất sĩ. Sau khi giao lại tài sản Đạo sư cho bậc Đạo sư, vị ấy đi tìm vợ một cách đúng pháp và phi pháp. Do mua, do bán với nữ Bà-la-môn được nước tưới lên, vị ấy đi đến nữ Bà-la-môn, cũng đi đến nữ Sát-đế-lỵ, cũng đi đến nữ Tỳ-xá, cũng đi đến nữ Thủ-đà, cũng đi đến nữ Chiên-đà-la, cũng đi đến nữ săn bắn, cũng đi đến nữ đan tre, cũng đi đến nữ làm xe, cũng đi đến nữ thổ dân, cũng đi đến người đàn bà có mang, cũng đi đến người đàn bà đang cho con bú, cũng đi đến người đàn bà trong thời kỳ không thể thụ thai. Nữ Bà-la-môn đối với vị ấy là phương tiện để thỏa lòng dục, để vui đùa, để thỏa thích. Nữ Bà-la-môn đối với nam Bà-la-môn có mục đích đẻ con. Cho đến sự giới hạn của các Bà-la-môn thời xưa, vị ấy không đứng tại đấy, vị ấy vượt qua giới hạn ấy. Này Doṇa, do vậy Bà-la-môn được gọi vị đã vượt qua giới hạn. Như vậy, này Doṇa, là Bà-la- môn vượt qua giới hạn.
Và này Doṇa, thế nào là Bà-la-môn Chiên-đà-la?
Ở đây, này Doṇa, Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời Tổ phụ, không một vết nhơ nào, một gièm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh. Vị ấy trong bốn mươi tám năm sống Phạm hạnh đồng trinh, học tập chân ngôn. Sau khi sống bốn mươi tám năm Phạm hạnh đồng trinh, sau khi học tập chân ngôn, vị ấy tìm kiếm tài sản Đạo sư cho vị Đạo sư một cách đúng pháp và phi pháp. Ở đây, này Doṇa, pháp là gì? Nhờ cày bừa, nhờ buôn bán, nhờ chăn bò, nhờ cung tên, nhờ làm người của vua, nhờ một nghề gì khác, không hoàn toàn chỉ do khất thực, không khinh thường bình bát của người khất sĩ. Sau khi giao lại tài sản Đạo sư cho bậc Đạo sư, vị ấy đi tìm vợ đúng pháp và phi pháp, do mua, do bán với nữ Bà-la-môn được nước tưới lên. Vị ấy đi đến nữ Bà-la-môn, cũng đi đến nữ Sát-đế-lỵ, cũng đi đến nữ Tỳ- xá, cũng đi đến nữ Thủ-đà, cũng đi đến nữ Chiên-đà-la, cũng đi đến nữ săn bắn, cũng đi đến nữ đan tre, cũng đi đến nữ làm xe, cũng đi đến nữ thổ dân, cũng đi đến người đàn bà có mang, cũng đi đến người đàn bà đang cho con bú, cũng đi đến người đàn bà trong thời kỳ không thể thụ thai. Nữ Bà-la-môn đối với vị ấy là phương tiện để thỏa lòng dục, để vui đùa, để thỏa thích. Nữ Bà-la-môn đối với nam Bà-la-môn có mục đích đẻ con. Vị ấy, để nuôi mạng sống, làm tất cả nghề. Rồi các Bà-la-môn nói với vị ấy như sau: “Sao Tôn giả tự cho mình là Bà-la-môn, lại làm tất cả nghề để nuôi mạng sống?” Vị ấy trả lời như sau: “Như lửa đốt vật sạch, cũng đốt vật nhớp, nhưng không phải vì vậy mà ngọn lửa bị uế nhiễm.” Cũng vậy, này các Tôn giả, nếu Bà-la-môn làm tất cả nghề để nuôi mạng sống, nhưng không phải vì vậy mà Bà-la-môn bị uế nhiễm. Vì làm tất cả nghề để nuôi mạng sống, này Doṇa, nên Bà-la-môn được gọi là Bà-la-môn Chiên-đà-la. Như vậy, này Doṇa, là Bà-la-môn Chiên-đà-la.
Này Doṇa, có phải các Bà-la-môn thời xưa, những vị ẩn sĩ giữa các Bà-la- môn, những tác giả các chú thuật, những nhà tụng tán các chú thuật đã hát, đã nói lên, đã sưu tầm những Thánh cú mà nay những Bà-la-môn hiện tại cũng hát lên, đọc lên giống như các vị trước đã làm. Những vị ấy tên là Aṭṭhaka, Vāmaka, Vāmadeva, Vessāmitta, Yamadaggi, Aṅgīrasa, Bhāradvāja, Vāseṭṭha, Kassapa, Bhagu. Những vị ấy tuyên bố có năm hạng Bà-la-môn này: “Vị đồng đẳng với Phạm thiên, vị đồng đẳng với chư thiên, vị có giới hạn, vị vượt lên giới hạn và thứ năm là Bà-la-môn Chiên-đà-la.” Này Doṇa, ông là ai giữa các vị ấy?
– Như vậy, thưa Tôn giả Gotama, chúng con chưa thành tựu đầy đủ Bà-la- môn Chiên-đà-la. Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thay, Tôn giả Gotama! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho những người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Bạch Tôn giả Gotama, con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mệnh chung, con trọn đời quy ngưỡng.
Tham khảo:
190 Đầu-na kinh 頭那經 (T.01. 0026.158. 0680b20).
191 Xem GS. I. 146; D. I. 120; M. II. 147; Sn. 105; Miln. 10.
192 Xem A. IV. 61; D. I. 104; M. II. 170; Vin. I. 245.
193 Xem A. IV. 281; M. I. 85.
194 Xem A. IV. 390; D. III. 223; M. II. 76; S. V. 115.
195 Udakūpassaṭṭha. AA. III. 309: Udakūpassaṭṭhanti udakena upassaṭṭhaṃ pariccattaṃ (“Được tưới nước lên” nghĩa là được tưới, được ban rải nước lên). Sau khi rưới nước lên tay cô ấy, họ trao cô ấy cho người chồng. Upa xuất phát từ srj, có nghĩa là làm cho nước chảy ra. Xem A. IV. 210. Tục lệ này ngày nay vẫn còn duy trì ở Ấn Độ và Tích Lan.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.