Viện Nghiên Cứu Phật Học

Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tăng Chi Bộ/ CHƯƠNG V NĂM PHÁP (PAÑCAKANIPĀTA)/ XIV. PHẨM VUA (RĀJAVAGGA)

 

 

IV.KINH TẠI MỖI PHƯƠNG HƯỚNG (Yassaṃdisaṃsutta) (A. III. 151)

    134.Thành tựu năm chi phần này,131 này các Tỷ-kheo, vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh sống tại phương hướng nào, vị ấy sống trong lĩnh vực mình chiếm đoạt được. Thế nào là năm?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời Tổ phụ, không một vết nhơ nào, một gièm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh;132 là nhà giàu có, đại phú, sung túc tài sản, ngân khố, kho lúa sung mãn;133 uy lực, đầy đủ bốn loại binh chủng trung thành và sẵn sàng tuân lệnh; vị tư lệnh, là bậc hiền trí tinh luyện, sáng suốt và có suy tư về những vấn đề quá khứ, vị lai, hiện tại;134 bốn pháp này khiến danh xưng vị ấy được chín muồi. Thành tựu với pháp danh xưng thứ năm này, tại phương hướng nào vị ấy trú ở, vị ấy sống trong lãnh vực mình chiếm đoạt được. sao? như vậy địa hạt của những người thắng trận.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thành tựu năm pháp này, Tỷ-kheo sống tại phương hướng nào, vị ấy sống với tâm giải thoát. Thế nào là năm?

đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo giới, sống hộ trì với sự hộ trì của Giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học pháp; như vậy, giống như vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, đầy đủ về thọ sanh.

Vị ấy bậc nghe nhiều, thọ trì điều được nghe, tích tập điều được nghe; đối với các pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có văn, có nghĩa, tán thán Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh; đối với các pháp như vậy được nghe nhiều, được thọ trì, được ghi nhớ nhờ đọc nhiều lần, chuyên ý quan sát, khéo thể nhập nhờ chánh kiến; như vậy, giống như vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, giàu có, đại phú, sung túc tài sản, ngân khố, kho lúa sung mãn.

Vị ấy sống tinh cần tinh tấn, đoạn trừ các pháp bất thiện, thành tựu các pháp thiện, nỗ lực kiên trì, không từ bỏ gánh nặng đối với các pháp thiện; như vậy, giống như vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, đầy đủ uy lực.

Vị ấy có trí tuệ, thành tựu với trí tuệ về sanh diệt, trí tuệ thuộc bậc Thánh, thể nhập và hướng đến chơn chánh đoạn tận khổ đau; như vậy, giống như vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, đầy đủ với vị tư lệnh.

Bốn pháp này khiến sự giải thoát của vị ấy được chín muồi. Thành tựu với pháp giải thoát thứ năm này, vị ấy trú tại phương hướng nào, vị ấy trú với tâm giải thoát. sao? như vậy, này các Tỷ-kheo, đây [địa hạt] của những tâm giải thoát.135

 

 

Tham khảo:

131    Về tám pháp, xem D. I. 137.

132    Xem A. I. 163; III. 221; GS. III. 163 (kinh 192  sau); D. I. 113; Sn. 115; J. I. 2.

133    Xem D. I. 134; Vin. I. 342.

134    Trong D. I. 137, đây  một đặc tánh của vị vua.

135    Vimuttacitta. AA. III. 286: Vimuttacittānanti pañcahi vimuttīhi vimuttamānasānaṃ (“Tâm giải thoát” nghĩa là sự giải thoát của tâm ý, là sự giải thoát thứ năm).

 

 

 

 

 

 

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.