Viện Nghiên Cứu Phật Học

Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tăng Chi Bộ/ CHƯƠNG V NĂM PHÁP (PAÑCAKANIPĀTA)/ XI. PHẨM AN ỔN TRÚ (PHĀSUVIHĀRAVAGGA)

V.KINH AN ỔN TRÚ (Phāsuvihārasutta) (A. III. 132)

105.Này các Tỷ-kheo, có năm an ổn trú110 này, thế nào là năm?

Ở đây, này các Tỷ-kheo: Tỷ-kheo an trú từ thân nghiệp đối với các vị đồng Phạm hạnh, trước mặt và sau lưng; An trú từ khẩu nghiệp đối với các vị đồng Phạm hạnh, trước mặt và sau lưng; An trú từ ý nghiệp đối với các vị đồng Phạm hạnh, trước mặt và sau lưng; Đối với các giới không bị bể vụn, không bị sứt mẻ, không bị nhiễm ô, không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến thiền định, vị ấy sống thành tựu các giới như vậy đối với các vị đồng Phạm hạnh, trước mặt và sau lưng; Và đối với tri kiến thuộc bậc Thánh, đưa đến xuất ly, được người thực hành chơn chánh đoạn diệt khổ đau, vị ấy sống thành tựu tri kiến như vậy đối với các vị đồng Phạm hạnh, trước mặt và sau lưng.

Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm an ổn trú.

Tham khảo:

110   Về điều kiện thứ 4, xem A. III. 32; V. 179. Về điều kiện thứ 5, xem D. I. 235; II. 88; M. I. 69.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.