Viện Nghiên Cứu Phật Học

Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tăng Chi Bộ/ CHƯƠNG IV BỐN PHÁP (CATUKKANIPĀTA)/ XXVI. PHẨM THẮNG TRÍ (ABHIÑÑĀVAGGA)

IV. KINH CON CỦA MĀLUṄKYA (Mālukyaputtasutta) (A. II. 248)

257. Rồi Tôn giả Māluṅkyaputta292 đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Māluṅkyaputta bạch Thế Tôn:

- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết pháp vắn tắt cho con; sau khi nghe thuyết pháp con sẽ sống một mình, viễn ly, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

- Nay ở đây, này Māluṅkyaputta, Ta nói gì cho các Tỷ-kheo trẻ, trong khi ông đã già yếu, tuổi thọ cao, là bậc trưởng thượng, lại cầu Như Lai giáo giới một cách vắn tắt?

- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con, chắc chắn con sẽ hiểu được ý nghĩa lời nói của Thế Tôn, chắc chắn con sẽ trở thành người thừa tự lời của Thế Tôn!

- Này Māluṅkyaputta, có bốn ái sanh này, ở đây, ái được sanh cho Tỷ-kheo.

Thế nào là bốn?

Hoặc do nhân y, này Māluṅkyaputta, có ái sanh, do ở đây, ái được sanh cho Tỷ-kheo; hoặc do nhân đồ ăn khất thực... hoặc do nhân sàng tọa... hoặc do nhân sanh hữu này hay sanh hữu khác, này Māluṅkyaputta, có ái sanh, do ở đây, ái được sanh cho vị Tỷ-kheo.

Này Māluṅkyaputta, có bốn ái sanh này, ở đây, ái được sanh cho Tỷ-kheo. Khi nào, này Māluṅkyaputta, ái được đoạn tận, chặt đứt từ gốc rễ, được làm cho như thân cây Sāla, làm cho không thể tái sanh, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai,293 vị ấy, này Māluṅkyaputta, được gọi là vị Tỷ-kheo đã đoạn diệt khát ái, đã thoát ly kiết sử, chơn chánh minh kiến kiêu mạn, đã diệt tận khổ đau.

Rồi Tôn giả Māluṅkyaputta, sau khi nghe Thế Tôn giáo giới với lời giáo giới này, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về phía Ngài rồi ra đi.

Rồi Tôn giả Māluṅkyaputta, sống một mình, viễn ly, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, không bao lâu, do mục đích gì các thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, tức là Vô thượng cứu cánh Phạm hạnh, ngay trong hiện tại tự mình với thắng trí, chứng đạt và an trú. Vị ấy biết rõ: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa.” Rồi Tôn giả Māluṅkyaputta trở thành một vị A-la-hán nữa.

Tham khảo

292 Bản Tích Lan, Thái Lan, Campuchia và PTS viết Māluṅkyaputta.

293 Xem M. I. 12; S. IV. 205.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.