Viện Nghiên Cứu Phật Học

Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tăng Chi Bộ/CHƯƠNG IV BỐN PHÁP (CATUKKANIPĀTA) / I. PHẨM BHAṆḌAGĀMA (BHAṆḌAGĀMAVAGGA)

IX. KINH ÁI SANH (Tahuppādasutta)13 (A. II. 10)

9. Có bốn ái sanh khởi, này các Tỷ-kheo, khi nào ái sanh, có thể sanh khởi nơi vị Tỷ-kheo. Thế nào là bốn?

Do nhận y áo, này các Tỷ-kheo, khi ái khởi lên, khởi lên nơi vị Tỷ-kheo; hay do nhận đồ ăn khất thực... hay do nhận sàng tọa... hay do nhận đây là hữu, đây là phi hữu,14 khi ái khởi lên, khởi lên nơi vị Tỷ-kheo.

Bốn ái sanh khởi này, này các Tỷ-kheo, khi nào ái sanh, có thể sanh khởi nơi vị Tỷ-kheo.

Người có ái làm bạn,
Sẽ luân chuyển lâu dài,
Khi hiện hữu chỗ này,
Khi hiện hữu chỗ khác,
Người ấy không dừng được,
Sự luân chuyển tái sanh.
Rõ biết nguy hại này,
Chính ái sanh đau khổ,
Tỷ-kheo từ bỏ ái,
Không nắm giữ chấp thủ,
An trú, không thất niệm,
Vị ấy sống xuất gia.

Tham khảo

13. Bản tiếng Anh của PTS: Craving, nghĩa là Khát ái. Tham chiếu: Tăng. 增 (T.02. 0125.29.8. 0658a27).
14. Itibhavābhava. Xem kinh 254 ở sau; D. I. 8. Trong AA. III. 12: Itibhavābhavahetūti ettha itīti nidassanatthe nipāto (“Do nhận đây là hữu, đây là phi hữu”: “Đây là” là từ bất biến chỉ sự so sánh). SnA. 6: Hữu được so sánh với phi hữu như sau: Hữu là thành công, phi hữu là thất bại; hữu là thường còn, phi hữu là hoại diệt; hữu là thiện, phi hữu là ác.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.