Viện Nghiên Cứu Phật Học

Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tăng Chi Bộ/CHƯƠNG III BA PHÁP (TIKANIPĀTA)/VII. PHẨM LỚN (MAHĀVAGGA)

X. KINH CÁC LỄ BỐ-TÁT (Uposathasutta)98 (A. I. 205) 

          71Như vầy tôi nghe.

          Một thời, Thế Tôn ở Sāvatthi (Xá-vệ), Pubbārāma (Đông Viên), nơi lâu đài của mẹ Migāra. Rồi Visākhā, mẹ của Migāra, trong ngày Uposatha,99 đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Visākhā, mẹ của Migāra, đang ngồi một bên:

          – Này Visākhā, từ đâu bà đến sáng sớm như thế này?

          – Bạch Thế Tôn, hôm nay con thọ trai giới (Uposatha).

          – Có ba loại trai giới này, này Visākhā. Thế nào là ba?

          Trai giới người chăn bò, trai giới Nigaṇṭha và trai giới bậc Thánh. 

          Như thế nào, này Visākhā, là trai giới người chăn bò?

          Ví như, này Visākhā, người chăn bò vào buổi chiều lùa các con bò về cho chủ của chúng. Người ấy suy nghĩ: “Hôm nay, các con bò đã ăn cỏ tại chỗ này và chỗ này, đã uống nước tại chỗ này và chỗ này. Ngày mai, các con bò sẽ ăn cỏ tại chỗ này và chỗ này, sẽ uống nước tại chỗ này và chỗ này.” Cũng vậy, này Visākhā, ở đây có người giữ trai giới suy nghĩ: “Hôm nay, ta đã ăn loại đồ ăn cứng này, loại đồ ăn cứng này ta đã ăn; ta đã ăn loại đồ ăn mềm này, loại đồ ăn mềm này ta đã ăn. Ngày mai, ta sẽ ăn loại đồ ăn cứng này, loại đồ ăn cứng này ta sẽ ăn; ta sẽ ăn loại đồ ăn mềm này, loại đồ ăn mềm này ta sẽ ăn”; như vậy, người ấy sống cả ngày với tâm đồng hành với tham dục. Như vậy, này Visākhā, là trai giới người chăn bò.

          Này Visākhā, thế nào là trai giới các Nigaṇṭha?

          Ở đây, này Visākhā, có hạng Sa-môn tên là Nigaṇṭha, họ khích lệ đệ tử như sau: “Ông hãy quăng bỏ trượng đối với các sinh loại sống ở phương Đông, ngoài một trăm do-tuần; hãy quăng bỏ trượng đối với các sinh loại sống ở phương Tây, ngoài một trăm do-tuần; hãy quăng bỏ trượng đối với các sinh loại sống ở phương Bắc, ngoài một trăm do-tuần; hãy quăng bỏ trượng đối với các sinh loại sống ở phương Nam, ngoài một trăm do-tuần.” Như vậy, họ khích lệ vì lòng thương, vì lòng từ mẫn đối với một số sinh loại mà thôi; họ không khích lệ vì lòng thương, vì lòng từ mẫn đối với một số sinh loại khác. Trong ngày Uposatha, họ khích lệ đệ tử như sau: “Này các ông, hãy quăng bỏ tất cả áo quần và nói như sau: ‘Ta không có bất cứ vật gì, bất cứ ở đâu, bất cứ chỗ nào. Bất cứ vật gì, bất cứ ở đâu, bất cứ chỗ nào, không có cái gì là của ta.’”100 Nhưng cha và mẹ của người ấy biết người ấy là con của mình, và người ấy biết họ là cha mẹ của mình. Vợ và con người ấy biết người ấy là chồng, là cha của mình; và người ấy biết họ là vợ, là con của mình. Các người nô tỳ làm công biết người ấy là chủ của họ; và người ấy biết họ là nô tỳ, là nhân viên của mình. Như vậy, trong thời gian đáng phải khích lệ đúng với sự thật, trong thời gian ấy, lại được khích lệ bằng điều nói láo, đây Ta tuyên bố là một sự nói láo. Sau khi đêm ấy đã qua, người ấy thọ hưởng tất cả tài sản chưa đem cho, đây Ta tuyên bố là lấy của không cho. Như vậy, này Visākhā, là lễ Uposatha của các Nigaṇṭha. Được sống thực hành như vậy, này Visākhā, lễ Uposatha của các Nigaṇṭha không có quả lớn, không có lợi ích lớn, không chói sáng lớn, không có ánh sáng lớn.

          Và này Visākhā, thế nào là trai giới các bậc Thánh? Chính là làm thanh tịnh một tâm uế nhiễm với phương pháp thích nghi.

          Và này Visākhā, thế nào là làm thanh tịnh một tâm uế nhiễm với phương pháp thích nghi?101

          Ở đây, này Visākhā, vị Thánh đệ tử niệm Như Lai: “Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.” Do vị ấy niệm Như Lai, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Ví như, này Visākhā, đầu uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi.

          Và này Visākhā, thế nào là đầu uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi?

          Do duyên bột nhồi, do duyên đất sét, do duyên nước và do duyên nỗ lực thích nghi của con người.102 Như vậy, này Visākhā, là đầu uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi. Cũng vậy, này Visākhā, là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi.

          Và này Visākhā, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi?

          Ở đây, này Visākhā, vị Thánh đệ tử niệm Như Lai: “Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.” Do vị ấy niệm Như Lai, tâm được tịnh tín, hân hoan khởi lên, các phiền não của tâm được đoạn tận. Này Visākhā, đây gọi là Thánh đệ tử thực hành trai giới Phạm thiên, vị ấy cùng sống với Phạm thiên. Do duyên Phạm thiên,103 tâm vị ấy được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Cũng vậy, này Visākhā, là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi.

          Này Visākhā, tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi. Và này Visākhā, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi?

Ở đây, này Visākhā, vị Thánh đệ tử niệm Pháp: “Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu.” Do vị ấy niệm Pháp, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Ví như, này Visākhā, thân uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi.

          Và này Visākhā, thế nào là thân uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi?

          Do duyên đá bọt (sotti),104 do duyên bột tắm (cuṇṇa), do duyên nước và do duyên nỗ lực thích nghi của con người. Như vậy, này Visākhā, là thân uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi. Cũng vậy, này Visākhā, là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi.

          Và như thế nào, này Visākhā, là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi?

          Ở đây, này Visākhā, vị Thánh đệ tử niệm Pháp: “Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng... được người trí tự mình giác hiểu.” Do người ấy niệm Pháp, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Này Visākhā, đây gọi là Thánh đệ tử thực hành pháp trai giới, vị ấy sống với Pháp. Chính nhờ Pháp, tâm vị ấy được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Cũng vậy, này Visākhā, là tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi.

          Này Visākhā, tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi. Và này Visākhā, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi?

          Ở đây, này Visākhā, vị Thánh đệ tử niệm Tăng: “Diệu hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn, Trực hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn, Ứng lý hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn, Chánh hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn, tức là bốn đôi tám vị. Chúng đệ tử của Thế Tôn là đáng cung kính, đáng tôn trọng, đáng cúng dường, đáng được chắp tay, là vô thượng phước điền ở đời.” Do vị ấy niệm Tăng, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Ví như, này Visākhā, một tấm vải bị uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi.

          Và này Visākhā, thế nào là một tấm vải bị uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi?

          Do duyên đất mặn, do duyên nước tro, do duyên phân bò, do duyên nước và do duyên nỗ lực thích nghi của con người. Như vậy, này Visākhā, một tấm vải bị uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi. Cũng vậy, này Visākhā, là tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi.

          Và này Visākhā, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi?

          Ở đây, này Visākhā, vị Thánh đệ tử niệm Tăng: “Diệu hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn... là vô thượng phước điền ở đời.” Nhờ vị ấy niệm Tăng, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Này Visākhā, đây gọi là Thánh đệ tử thực hành chúng Tăng trai giới, sống với chúng Tăng. Chính nhờ chúng Tăng, tâm vị ấy được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Cũng vậy, này Visākhā, là tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi.

          Này Visākhā, tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi. Và này Visākhā, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi?

          Ở đây, này Visākhā, vị Thánh đệ tử niệm giới:105 “Không bị phá hoại, không bị đâm cắt, không bị nhiễm ô, không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến thiền định.” Do vị ấy niệm giới, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Ví như, này Visākhā, một tấm gương uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi.

          Và này Visākhā, thế nào là một tấm gương uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi?

          Do duyên dầu, do duyên tro, do duyên bàn chải lông (vālaṇḍupaka) và do duyên nỗ lực thích nghi của con người. Như vậy, này Visākhā, là tấm gương uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi. Cũng vậy, này Visākhā, là tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi.

          Và này Visākhā, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi?

          Ở đây, này Visākhā, vị Thánh đệ tử niệm giới: “Không bị phá hoại... đưa đến thiền định.” Vị ấy nhờ niệm giới, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Này Visākhā, đây gọi là vị Thánh đệ tử thực hành giới Uposatha, sống chung với giới. Nhờ giới, tâm vị ấy được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Như vậy, này Visākhā, là tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi.

          Này Visākhā, tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi. Và này Visākhā, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi?

          Ở đây, này Visākhā, vị Thánh đệ tử niệm thiên:106 “Có chư thiên cõi Tứ Thiên Vương; có chư thiên cõi trời Ba Mươi Ba; có chư thiên Dạ-ma; có chư thiên Đâu-suất; có chư thiên Hóa Lạc; có chư thiên Tha Hóa Tự Tại; có chư thiên Phạm Chúng; có chư thiên cao hơn nữa. Đầy đủ với lòng tin như vậy, chư thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia; lòng tin như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Đầy đủ với giới như vậy, chư thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia; giới như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Đầy đủ với nghe pháp như vậy, chư thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia; nghe pháp như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Đầy đủ với thí như vậy, chư thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia; thí như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Đầy đủ với tuệ như vậy, chư thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia; tuệ như vậy cũng có đầy đủ nơi ta.” Khi người ấy niệm tín, giới, nghe pháp, thí và tuệ của tự mình và chư thiên ấy, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Ví như, này Visākhā, là vàng bị uế nhiễm được làm cho thanh tịnh nhờ phương pháp thích nghi.

          Và này Visākhā, thế nào là vàng bị uế nhiễm được làm cho thanh tịnh nhờ phương pháp thích nghi?

          Do duyên lò, do duyên đất muối, do duyên phấn đỏ, do duyên ống bệ, do duyên cái kềm và do duyên nỗ lực thích nghi của con người. Như vậy, này Visākhā, là vàng bị uế nhiễm được làm cho thanh tịnh nhờ phương pháp thích nghi. Cũng vậy, này Visākhā, là tâm bị uế nhiễm được làm cho thanh tịnh nhờ phương pháp thích nghi.

          Và này Visākhā, thế nào là tâm bị uế nhiễm được làm cho thanh tịnh nhờ phương pháp thích nghi?

          Ở đây, này Visākhā, vị Thánh đệ tử niệm thiên: “Có chư thiên Bốn Thiên Vương; có chư thiên cõi trời Ba Mươi Ba... có chư thiên cao hơn nữa. Đầy đủ với lòng tin như vậy, chư thiên ấy, sau khi mệnh chung ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia; ta cũng có lòng tin như vậy. Đầy đủ với giới... với nghe pháp... với thí... với trí tuệ như vậy, chư thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia; ta cũng có trí tuệ như vậy.” Khi vị ấy niệm tín, giới, nghe pháp, thí và tuệ của tự mình và của chư thiên ấy, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Đây gọi là vị Thánh đệ tử thực hành thiên trai giới (Uposatha), sống chung với chư thiên. Nhờ chư thiên, tâm vị ấy được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Như vậy, này Visākhā, là tâm bị uế nhiễm được làm cho thanh tịnh nhờ phương pháp thích nghi.

          Vị Thánh đệ tử ấy, này Visākhā, suy tư như sau: “Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ sát sanh,107 tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Cũng vậy, ngày và đêm nay, ta sống từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-lahán và ta sẽ thực hành trai giới.”

          “Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Cũng vậy, ngày và đêm nay, ta sống từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới.”

          “Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ tà hạnh, tịnh tu Phạm hạnh, sống giải thoát, từ bỏ dâm dục hèn hạ. Cũng vậy, ngày và đêm nay, ta sống từ bỏ tà hạnh, tịnh tu Phạm hạnh, sống giải thoát, từ bỏ dâm dục hèn hạ. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới.”

          “Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ nói láo, tránh xa nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ nơi sự thật chắc chắn, đáng tin cậy, không lừa gạt, không phản lại lời hứa đối với đời. Cũng vậy, ngày và đêm nay, ta sống từ bỏ nói láo, tránh xa nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ nơi sự thật chắc chắn, đáng tin cậy, không lừa gạt, không phản lại lời hứa đối với đời. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới.”

          “Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ rượu men rượu nấu làm cho đắm say, tránh xa rượu men rượu nấu làm cho đắm say. Cũng vậy, ngày và đêm nay, ta sống từ bỏ rượu men rượu nấu làm cho đắm say, tránh xa rượu men rượu nấu làm cho đắm say. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới.”

          “Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán ăn một ngày một bữa, không ăn ban đêm, không ăn phi thời. Cũng vậy, ngày và đêm nay, ta sống ăn một ngày một bữa, không ăn ban đêm, không ăn phi thời. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới.”

          “Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán tránh xa, không xem múa, hát, nhạc, diễn kịch;108 không trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang. Cũng vậy, ngày và đêm nay, ta sống tránh xa, không xem múa, hát, nhạc, diễn kịch; không trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới.”

          “Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ giường cao, giường lớn, tránh xa giường cao, giường lớn. Các vị ấy nằm trên giường thấp, trên giường nhỏ hay trên đệm cỏ. Cũng vậy, ngày và đêm nay, ta từ bỏ giường cao, giường lớn, tránh xa giường cao, giường lớn. Ta nằm trên giường thấp, trên giường nhỏ hay trên đệm cỏ. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới.”

          Như vậy, này Visākhā, là Thánh trai giới (Uposatha); thực hành Thánh trai giới , này Visākhā, có quả lớn, có lợi ích lớn, có chói sáng lớn, có ánh sáng lớn.

          Quả lớn là như thế nào? Lợi ích lớn như thế nào? Chói sáng lớn như thế nào? Ánh sáng lớn như thế nào?

          Ví như, này Visākhā, có người áp đặt chủ quyền cai trị trên mười sáu quốc độ lớn tràn đầy bảy báu như Aṅga, Magadha, Kāsi, Kosala, Vajjī, Malla, Ceti, Vaṅga, Kuru, Pañcāla, Macchā, Sūrasena, Assaka, Avanti, Gandhāra, Kamboja,109 nhưng chủ quyền ấy không bằng một phần mười sáu của một trai giới thực hành đầy đủ cả tám giới. Vì cớ sao? Nhỏ nhoi thay, này Visākhā, là vương quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư thiên!

          Năm mươi năm của một đời người, này Visākhā, bằng một đêm một ngày của chư thiên cõi Tứ Thiên Vương. Ba mươi đêm như vậy làm thành một tháng. Mười hai tháng như vậy làm thành một năm. Năm mươi năm chư thiên như vậy làm thành thọ mạng của chư thiên cõi Tứ Thiên Vương. Sự kiện này có xảy ra, này Visākhā, ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông, sau khi thực hành trai giới đầy đủ cả tám giới, sau khi thân hoại mệnh chung, được sanh cộng trú với chư thiên cõi Tứ Thiên Vương. Chính dựa trên trường hợp này, được nói lên rằng: “Nhỏ nhoi thay là vương quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư thiên!”

          Một trăm năm của một đời người, này Visākhā, bằng một đêm một ngày của chư thiên ở cõi trời Ba Mươi Ba. Ba mươi đêm như vậy làm thành một tháng. Mười hai tháng như vậy làm thành một năm. Một ngàn năm chư thiên như vậy làm thành thọ mạng của chư thiên ở cõi trời Ba Mươi Ba. Sự kiện này có xảy ra, này Visākhā, ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông, sau khi thực hành trai giới đầy đủ cả tám giới, sau khi thân hoại mệnh chung, được sanh cộng trú với chư thiên ở cõi trời Ba Mươi Ba. Chính dựa trên trường hợp này, được nói lên rằng: “Nhỏ nhoi thay là vương quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư thiên!”

          Hai trăm năm của một đời người, này Visākhā, bằng một đêm một ngày của chư thiên ở cõi trời Yāmā. Ba mươi đêm như vậy làm thành một tháng. Mười hai tháng như vậy làm thành một năm. Hai ngàn năm chư thiên như vậy làm thành thọ mạng của chư thiên ở cõi trời Yāmā. Sự kiện này có xảy ra, này Visākhā, ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông, sau khi thực hành trai giới đầy đủ cả tám giới, sau khi thân hoại mệnh chung, được sanh cộng trú với chư thiên ở cõi trời Yāmā. Chính dựa trên trường hợp này, được nói lên rằng: “Nhỏ nhoi thay là vương quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư thiên!”

          Bốn trăm năm của một đời người, này Visākhā, bằng một đêm một ngày của chư thiên ở cõi trời Tusita. Ba mươi đêm như vậy làm thành một tháng. Mười hai tháng như vậy làm thành một năm. Bốn ngàn năm chư thiên như vậy làm thành thọ mạng của chư thiên ở cõi trời Tusita. Sự kiện này có xảy ra, này Visākhā, ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông, sau khi thực hành trai giới đầy đủ cả tám giới, sau khi thân hoại mệnh chung, được sanh cộng trú với chư thiên ở cõi trời Tusita. Chính dựa trên trường hợp này, được nói lên rằng: “Nhỏ nhoi thay là vương quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư thiên!”

          Tám trăm năm của một đời người, này Visākhā, bằng một đêm một ngày của chư thiên ở cõi trời Hóa Lạc. Ba mươi đêm như vậy làm thành một tháng. Mười hai tháng như vậy làm thành một năm. Tám ngàn năm chư thiên như vậy làm thành thọ mạng của chư thiên ở cõi trời Hóa Lạc. Sự kiện này có xảy ra, này Visākhā, ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông, sau khi thực hành trai giới đầy đủ cả tám giới, sau khi thân hoại mệnh chung, được sanh cộng trú với chư thiên ở cõi trời Hóa Lạc. Chính dựa trên trường hợp này, được nói lên rằng: “Nhỏ nhoi thay là vương quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư thiên!”

          Một ngàn sáu trăm năm của một đời người, này Visākhā, bằng một đêm một ngày của chư thiên ở cõi trời Tha Hóa Tự Tại. Ba mươi đêm như vậy làm thành một tháng. Mười hai tháng như vậy làm thành một năm. Mười sáu ngàn năm chư thiên như vậy làm thành thọ mạng của chư thiên ở cõi trời Tha Hóa Tự Tại. Sự kiện này có xảy ra, này Visākhā, ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông, sau khi thực hành Uposatha đầy đủ cả tám giới, sau khi thân hoại mệnh chung, được sanh cộng trú với chư thiên ở cõi trời Tha Hóa Tự Tại. Chính dựa trên trường hợp này, được nói lên rằng: “Nhỏ nhoi thay là vương quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư thiên!”

                    Chớ giết hại sinh loài, 
                    Chớ lấy của không cho, 
                    Chớ nói lời nói láo,
                    Chớ uống thứ rượu say, 
                    Từ bỏ, không Phạm hạnh, 
                    Từ bỏ, không dâm dục, 
                    Không ăn vào ban đêm, 
                    Tránh không ăn phi thời, 
                    Không mang các vòng hoa, 
                    Không dùng các hương liệu, 
                    Hãy nằm trên tấm thảm, 
                    Được trải dài trên đất, 
                    Chính hạnh trai giới này, 
                    Được gọi có tám phần, 
                    Do đức Phật nói lên,
                    Đưa đến đoạn tận khổ. 
                    Mặt trăng và mặt trời, 
                    Được thấy là lành tốt, 
                    Chỗ nào chúng đi tới, 
                    Chúng chói sáng hào quang, 
                    Chúng làm mây sáng chói, 
                    Giữa hư không chúng đi, 
                    Trên trời chúng chói sáng,
                    Sáng rực mọi phương hướng, 
                    Trong khoảng không gian ấy, 
                    Tài sản được tìm thấy, 
                    Trân châu và ngọc báu, 
                    Lưu ly, đá cầu may,110 
                    Vàng cục trong lòng đất, 
                    Hay loại kañcana,111
                    Cùng loại vàng sáng chói,
                    Được gọi là hāṭaka,112 
                    Tuy vậy chúng trị giá, 
                    Chỉ một phần mười sáu, 
                    Với hạnh giữ trai giới, 
                    Đầy đủ cả tám giới,
                    Kể cả ánh sáng trăng, 
                    Với cả vòm trời sao. 
                    Vậy người nữ, người nam,
                    Hãy giữ theo tịnh giới, 
                    Hành Bố-tát trai giới, 
                    Đầy đủ cả tám giới, 
                    Làm thiện các công đức, 
                    Đem lại nhiều an lạc, 
                    Được sanh lên cõi trời, 
                    Không bị người cười chê.

Tham khảo:

98 Tham chiếu: Tăng. 增 (T.02. 0125.24.6. 0624b19); Trì trai kinh 持齋經 (T.01. 0026.202. 0770a16).

99 Chính là ngày rằm.

100 Kiñcana. AA. II. 231 viết palibodho, có nghĩa là trở ngại. Xem A. II. 177; Ud. VII. 10; UdA. 386.

101 Upakkamena: Với phương pháp thích nghi. Theo AA. II. 324, đức Phật ví như đầu, Pháp là thân, Tăng là y phục, Giới là tấm gương và chư thiên là vàng ròng.

102 Tajja, sarūpa. Xem S. II. 96; IV. 215.

103 Ở đây Phạm thiên (Brahmā) chỉ cho đức Phật.

104 Một thứ đá bọt dùng để chà lưng. M. II. 46. Theo Chú giải, đá Kuruvindaka được nghiền ra thành bột, làm thành viên tròn với sáp, được đục lỗ và xâu dây vào, hai tay cầm hai đầu dây kéo qua kéo lại, cọ xát trên lưng.

105 Xem KS. V. 297.

106 Ở đây devatā gồm cả hai devā devatā. Trong D. II. 252, Mahāsamaya Sutta S. V. 420, có đề cập chư thiên cao hơn, trừ bhummadevatā (địa thần) thấp nhất.

107 Xem A. IV. 248ff; D. I. 4ff; S. V. 469.

108 Xem KS. V. 394.

109 Các quốc độ này được diễn tả trong BI. 23ff… Các dân tộc Aṅga ở phía Đông Magadha; các dân tộc Magadha, nay gọi là Bihar; các dân tộc Kāsi ở xung quanh Benares; các dân tộc Kosalā ở Nepal, kinh đô là Sāvatthi; các dân tộc Vajjī, gồm có 8 dòng họ, như: Licchavī và Videhā ở không xa Vesāli; các dân tộc Mallā ở Kusinārā và Pāvā; các dân tộc Ceti (Cedī) có lẽ ở Nepal; các dân tộc Vaṃsā (hay Vacchā) có lẽ ở Bengal; các dân tộc Kurū ở gần Delhi, các dân tộc Pañcālā ở phía Đông Kuru; các dân tộc Macchā (Matsya) ở phía Nam Kuru; các dân tộc Surasenā ở Tây Nam Maccha; các dân tộc Assakā ở trên sông Godhāvari; Avanti với kinh đô là Ujjeni; Gandhāra (nay là Kandahar) và Kamboja, phía xa Tây Bắc.

110 AA. II. 330: Bhaddakanti laddhakaṃ (“Đá cầu may” hay còn gọi đá quý là loại đá đẹp).

111 Kañcana: Tìm được trong núi. Xem AA. II. 329.

112 Hāṭaka: Vàng do kiến tha. Xem AA. II. 329

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.