Viện Nghiên Cứu Phật Học

Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tăng Chi Bộ/CHƯƠNG III BA PHÁP (TIKANIPĀTA)/VII. PHẨM LỚN (MAHĀVAGGA)

I. KINH THUYẾT CĂN BẢN CỦA NGOẠI ĐẠO 

(Titthāyatanādisutta)80 (A. I. 173) 

          62. Này các Tỷ-kheo, có ba y xứ này của ngoại đạo, dầu có bị các bậc Hiền giả cật vấn,81 nạn vấn lý do, thảo luận, vẫn kiên trì trong quan điểm truyền thống82 về vô vi (akiriyāya). Thế nào là ba? 

          Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn thuyết như sau, chấp kiến như sau: “Phàm có cảm giác gì con người này lãnh thọ lạc, khổ hay không khổ không lạc, tất cả đều do nhân nghiệp quá khứ.”83 Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn thuyết như sau, chấp kiến như sau: “Phàm có cảm giác gì con người này lãnh thọ lạc, khổ hay không khổ không lạc, tất cả đều do nhân một vị Tạo hóa tạo ra.” Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, hay Bà-la-môn thuyết như sau, chấp kiến như sau: “Phàm có cảm giác gì con người này lãnh thọ lạc, khổ hay không khổ không lạc, tất cả đều do không nhân, không duyên.” 

          Ở đây, này các Tỷ-kheo, đối với các vị Sa-môn, Bà-la-môn thuyết như sau, chấp kiến như sau: “Phàm có cảm giác gì con người này lãnh thọ lạc, khổ hay không khổ không lạc, tất cả đều do nhân nghiệp quá khứ”; đối với các vị ấy, Ta đến và nói: “Chư Tôn giả, có thật chăng chư Tôn giả có thuyết như sau, chấp kiến như sau: ‘Phàm có cảm giác gì con người này lãnh thọ lạc, khổ hay không khổ không lạc, tất cả đều do nhân nghiệp quá khứ’?”

          Được Ta hỏi vậy, họ trả lời: “Thưa phải, có như vậy.” 

          Ta nói với họ như sau: “Như vậy, thời theo các Tôn giả, do nhân nghiệp quá khứ, sẽ trở thành người sát sanh; do nhân nghiệp quá khứ, sẽ trở thành người lấy của không cho; do nhân nghiệp quá khứ, sẽ trở thành người không Phạm hạnh; do nhân nghiệp quá khứ, sẽ trở thành người nói láo; do nhân nghiệp quá khứ, sẽ trở thành người nói hai lưỡi; do nhân nghiệp quá khứ, sẽ trở thành người ác khẩu; do nhân nghiệp quá khứ, sẽ trở thành người nói lời phù phiếm; do nhân nghiệp quá khứ, sẽ trở thành người tham lam; do nhân nghiệp quá khứ, sẽ trở thành người có tâm sân; do nhân nghiệp quá khứ, sẽ trở thành người theo tà kiến.” Nhưng này các Tỷ-kheo, với những ai trở lại dựa vào nghiệp quá khứ như là lý do xác thực, những người ấy sẽ không có ước muốn, không có tinh tấn, không có suy nghĩ “đây là việc phải làm” hay “đây là việc không nên làm.” Như vậy, sự cần thiết cần phải làm hay không cần phải làm không được xem là chân thực, là đáng tin cậy, thời danh từ Sa-môn không thể áp dụng đúng pháp cho họ được, vì họ sống thất niệm, với các căn không được hộ trì.

          Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là sự chỉ trích đúng pháp thứ nhất của Ta đối với các vị Sa-môn, Bà-la-môn có thuyết như vậy, có chấp kiến như vậy.

          Ở đây, này các Tỷ-kheo, đối với các vị Sa-môn, Bà-la-môn thuyết như sau, chấp kiến như sau: “Phàm có cảm giác gì con người này lãnh thọ lạc, khổ hay không khổ không lạc, tất cả đều do nhân một vị Tạo hóa tạo ra”; đối với các vị ấy, Ta đến và nói: “Chư Tôn giả, có thật chăng chư Tôn giả có thuyết như sau, chấp kiến như sau: ‘Phàm có cảm giác gì con người này lãnh thọ lạc, khổ hay không khổ không lạc, tất cả đều do nhân một vị Tạo hóa tạo ra’?”

          Được Ta hỏi vậy, họ trả lời: “Thưa phải, có như vậy.”

          Ta nói với họ như sau: “Như vậy, thời theo các Tôn giả, do nhân một vị Tạo hóa tạo ra, sẽ trở thành người sát sanh; do nhân một vị Tạo hóa tạo ra, sẽ trở thành người lấy của không cho; do nhân một vị Tạo hóa tạo ra, sẽ trở thành người không Phạm hạnh; do nhân một vị Tạo hóa tạo ra, sẽ trở thành người nói láo; do nhân một vị Tạo hóa tạo ra, sẽ trở thành người nói hai lưỡi; do nhân một vị Tạo hóa tạo ra, sẽ trở thành người ác khẩu; do nhân một vị Tạo hóa tạo ra, sẽ trở thành người nói lời phù phiếm; do nhân một vị Tạo hóa tạo ra, sẽ trở thành người tham lam; do nhân một vị Tạo hóa tạo ra, sẽ trở thành người có tâm sân; do nhân một vị Tạo hóa tạo ra, sẽ trở thành người theo tà kiến.” Nhưng này các Tỷ-kheo, với những ai trở lại dựa vào vị Tạo hóa tạo ra như là lý do xác thực, những người ấy sẽ không có ước muốn, không có tinh tấn, không có suy nghĩ “đây là việc phải làm” hay “đây là việc không nên làm.” Như vậy, sự cần thiết cần phải làm hay không cần phải làm không được xem là chân thực, là đáng tin cậy, thời danh từ Sa-môn không thể áp dụng đúng pháp cho họ được, vì họ sống thất niệm, với các căn không hộ trì.

          Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là sự chỉ trích đúng pháp thứ hai của Ta đối với các vị Sa-môn, Bà-la-môn có thuyết như vậy, có chấp kiến như vậy.

          Ở đây, này các Tỷ-kheo, đối với các vị Sa-môn, Bà-la-môn thuyết như sau, chấp kiến như sau: “Phàm có cảm giác gì con người này lãnh thọ lạc, khổ hay không khổ không lạc, tất cả đều do không nhân, không duyên”; đối với các vị ấy, Ta đến và nói: “Chư Tôn giả, có thật chăng chư Tôn giả có thuyết như sau, chấp kiến như sau: ‘Phàm có cảm giác gì con người này lãnh thọ lạc, khổ hay không khổ không lạc, tất cả đều do không nhân, không duyên’?”

          Được Ta hỏi vậy, họ trả lời: “Thưa phải, có như vậy.”

          Ta nói với họ như sau: “Như vậy, thời theo các Tôn giả, do không nhân, không duyên, sẽ trở thành người sát sanh; do không nhân, không duyên, sẽ trở thành người lấy của không cho; do không nhân, không duyên, sẽ trở thành người không Phạm hạnh; do không nhân, không duyên, sẽ trở thành người nói láo; do không nhân, không duyên, sẽ trở thành người nói hai lưỡi; do không nhân, không duyên, sẽ trở thành người ác khẩu; do không nhân, không duyên, sẽ trở thành người nói lời phù phiếm; do không nhân, không duyên, sẽ trở thành người tham lam; do không nhân, không duyên, sẽ trở thành người có tâm sân; do không nhân, không duyên, sẽ trở thành người theo tà kiến.” Nhưng này các Tỷ-kheo, với những ai trở lại dựa vào không nhân, không duyên như là lý do xác thực, những người ấy sẽ không có ước muốn, không có tinh tấn, không có suy nghĩ “đây là việc phải làm” hay “đây là việc không nên làm.” Như vậy, sự cần thiết cần phải làm hay không cần phải làm không được xem là chân thực, là đáng tin cậy, thời danh từ Sa-môn không thể áp dụng đúng pháp cho họ được, vì họ sống thất niệm và với các căn không hộ trì.

          Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là sự chỉ trích đúng pháp thứ ba của Ta đối với các vị Sa-môn, Bà-la-môn có thuyết như vậy, có chấp kiến như vậy.

          Này các Tỷ-kheo, đây là ba y xứ của ngoại đạo, dầu có bị các bậc Hiền giả cật vấn, nạn vấn lý do, thảo luận, vẫn kiên trì trong quan điểm truyền thống về vô vi [không hành động].

          Và này các Tỷ-kheo, đây là pháp Ta thuyết giảng, không bị chỉ trích, không bị uế nhiễm, không có tội lỗi, không bị các Sa-môn, các Bà-la-môn có trí quở trách. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp Ta thuyết giảng, không bị chỉ trích, không bị uế nhiễm, không có tội lỗi, không bị các Sa-môn, các Bà-la-môn có trí quở trách?

          Sáu giới này, này các Tỷ-kheo, là pháp Ta thuyết giảng, không bị chỉ trích, không bị uế nhiễm, không có tội lỗi, không bị các Sa-môn, các Bà-la-môn có trí quở trách. Sáu xúc xứ này, này các Tỷ-kheo, là pháp Ta thuyết giảng, không bị chỉ trích, không bị uế nhiễm, không có tội lỗi, không bị các Sa-môn, các Bà- la-môn có trí quở trách. Mười tám ý cận hành này, này các Tỷ-kheo, là pháp Ta thuyết giảng, không bị chỉ trích, không bị uế nhiễm, không có tội lỗi, không bị các Sa-môn, các Bà-la-môn có trí quở trách. Bốn Thánh đế này, này các Tỷ- kheo, là pháp Ta thuyết giảng, không bị chỉ trích, không bị uế nhiễm, không có tội lỗi, không bị các Sa-môn, các Bà-la-môn có trí quở trách.

          Sáu giới này, này các Tỷ-kheo, là pháp Ta thuyết giảng, không bị chỉ trích, không bị uế nhiễm, không có tội lỗi, không bị các Sa-môn, các Bà-la-môn có trí quở trách, được nói đến như vậy. Điều đã được nói đến, chính do duyên nào được nói đến? Này các Tỷ-kheo, có sáu giới này: Địa giới, thủy giới, phong giới, hỏa giới, không giới, thức giới. Sáu giới này, này các Tỷ-kheo, là pháp Ta thuyết giảng, không bị chỉ trích, không bị uế nhiễm, không có tội lỗi, không bị các Sa-môn, các Bà-la-môn có trí quở trách. Điều đã được nói đến, chính do duyên này được nói đến.

          Có sáu xúc xứ này, này các Tỷ-kheo, là pháp Ta thuyết giảng, không bị chỉ trích, không bị uế nhiễm, không có tội lỗi, không bị các Sa-môn, các Bà-lamôn có trí quở trách. Điều đã được nói đến, chính do duyên nào được nói đến? Này các Tỷ-kheo, có sáu xúc xứ này: Nhãn xúc xứ, nhĩ xúc xứ, tỷ xúc xứ, thiệt xúc xứ, thân xúc xứ, ý xúc xứ. Có sáu xúc xứ này, này các Tỷ-kheo, là pháp Ta thuyết giảng, không bị chỉ trích, không bị uế nhiễm, không có tội lỗi, không bị các Sa-môn, các Bà-la-môn có trí quở trách. Điều đã được nói đến, chính do duyên này được nói đến.

          Có mười tám ý cận hành này, này các Tỷ-kheo, là pháp Ta thuyết giảng, không bị chỉ trích, không bị uế nhiễm, không có tội lỗi, không bị các Sa-môn, các Bà-la-môn có trí quở trách. Điều đã được nói đến, chính do duyên nào được nói đến? Khi mắt thấy sắc, tư tưởng hướng về và đến gần sắc, làm y xứ cho hỷ; hướng về và đến gần sắc, làm y xứ cho ưu; hướng về và đến gần sắc, làm y xứ cho xả. Khi tai nghe tiếng, tư tưởng hướng về và đến gần tiếng, làm y xứ cho hỷ; hướng về và đến gần tiếng, làm y xứ cho ưu; hướng về và đến gần tiếng, làm y xứ cho xả. Khi mũi ngửi hương... Khi lưỡi nếm vị... Khi thân cảm xúc... Khi ý nhận thức pháp, tư tưởng hướng về và đến gần pháp, làm y xứ cho hỷ; hướng về và đến gần pháp, làm y xứ cho ưu; hướng về và đến gần pháp, làm y xứ cho xả. Có mười tám ý cận hành này, này các Tỷ-kheo, là pháp Ta thuyết giảng, không bị chỉ trích, không bị uế nhiễm, không có tội lỗi, không bị các Sa-môn, các Bà-la-môn có trí quở trách. Điều đã được nói đến, chính do duyên này được nói đến.

          Bốn Thánh đế này, này các Tỷ-kheo, là pháp Ta thuyết giảng, không bị chỉ trích, không bị uế nhiễm, không có tội lỗi, không bị các Sa-môn, các Bà-la-môn có trí quở trách. Điều đã được nói đến, chính do duyên nào được nói đến? Do chấp thủ sáu giới, này các Tỷ-kheo, nên có nhập thai; do có nhập thai nên có danh sắc; do duyên danh sắc nên có sáu xứ; do duyên sáu xứ nên có xúc; do duyên xúc nên có thọ. Với người có cảm thọ, này các Tỷ-kheo, Ta nêu rõ: “Đây là khổ”; Ta nêu rõ: “Đây là khổ tập; Ta nêu rõ: “Đây là khổ diệt”; Ta nêu rõ: “Đây là con đường đưa đến khổ diệt.”

          Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Khổ Thánh đế?

          Sanh là khổ; già là khổ; bệnh là khổ; chết là khổ; sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ; điều mong cầu không được là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ. Này các Tỷ-kheo, đây là Khổ Thánh đế.

          Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Thánh đế về Khổ tập?

          Vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên danh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Thánh đế về Khổ tập.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Thánh đế về Khổ diệt?

          Do vô minh diệt, không có dư tàn nên các hành diệt; do hành diệt nên thức diệt; do thức diệt nên danh sắc diệt; do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt; do sáu xứ diệt nên xúc diệt; do xúc diệt nên thọ diệt; do thọ diệt nên ái diệt; do ái diệt nên thủ diệt; do thủ diệt nên hữu diệt; do hữu diệt nên sanh diệt; do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não đều diệt. Như vậy là sự đoạn diệt toàn bộ của khổ uẩn này. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Thánh đế về Khổ diệt.

          Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Thánh đế về Con đường đưa đến khổ diệt?

          Đây là Thánh đạo tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Thánh đế về Con đường đưa đến khổ diệt.

          Bốn Thánh đế này, này các Tỷ-kheo, là pháp Ta thuyết giảng, không bị chỉ trích, không có uế nhiễm, không có tội lỗi, không bị các Sa-môn, các Bà-lamôn có trí quở trách. Điều đã được nói đến, chính do duyên này được nói đến.

Tham khảo:

80 Bản tiếng Anh của PTS: Tenets, nghĩa là Các nguyên lý. Tham chiếu: Độ kinh 度經 (T.01. 0026.13. 0435a24). 

81 Xem M. I. 130. 

82 Paraṃpi gantvāti: Kiên trì đời này qua đời khác. 

83 Xem M. II. 214ff

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.