Viện Nghiên Cứu Phật Học

Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tăng Chi Bộ/CHƯƠNG III BA PHÁP (TIKANIPĀTA)/VI. PHẨM CÁC BÀ-LA-MÔN (BRĀHMAṆAVAGGA)

VIII. KINH TIKAṆṆA (Tikaṇṇasutta)75 (A. I. 163) 

          59. Rồi Bà-la-môn Tikaṇṇa đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Tikaṇṇa, trước mặt Thế Tôn, tán thán các bậc Bà-la-môn có đầy đủ Ba minh. 

          – Phải, này Bà-la-môn, họ là bậc có Ba minh. Phải, các Bà-la-môn có Ba minh. Cho đến như thế nào, này Bà-la-môn, các Bà-la-môn diễn tả Ba minh của các Bà-la-môn?       – Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, vị Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh76 cho đến bảy đời Tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một gièm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh; nhà phúng tụng, nhà trì chú; thông hiểu ba tập Vệ-đà với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và các cổ truyện là thứ năm; thông hiểu ngữ pháp và văn phạm; biện tài về Thuận thế luận (Tự nhiên học) và tướng của các vị Đại nhân. Như vậy, thưa Tôn giả Gotama, là các vị Bà-la-môn diễn tả Ba minh của các vị Bà-la-môn. 

          – Thật là khác, này Bà-la-môn, các Bà-la-môn diễn tả Ba minh của các Bà-la-môn! Thật là khác Ba minh trong Luật của bậc Thánh! 

          – Như thế nào, thưa Tôn giả Gotama, là Ba minh trong Luật của bậc Thánh? Lành thay nếu Tôn giả Gotama thuyết pháp cho chúng tôi về Ba minh trong Luật của bậc Thánh!

          – Vậy này Bà-la-môn, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.

          – Thưa vâng, Tôn giả.

          Bà-la-môn Tikaṇṇa vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

          – Ở đây, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo ly dục, ly ác, bất thiện pháp, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm với tứ. Làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, vị ấy chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, vị ấy chứng đạt và an trú Thiền thứ ba. Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, vị ấy chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.

          Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời; nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: “Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây.”

          Như vậy, vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các nét chi tiết. Đây là Minh thứ nhất vị ấy đã đạt được, vô minh diệt, minh khởi; bóng tối diệt, ánh sáng sanh đối với vị an trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

          Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Vị ấy với Thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy rõ biết rằng chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang; người đẹp đẽ, kẻ thô xấu; người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Các chúng sanh nào làm những ác hạnh về thân, ngữ, ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến, những người này, sau khi thân hoại mệnh chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, ngữ, ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mệnh chung, được sanh vào các cõi thiện, cõi trời, cõi đời này.

          Như vậy, vị ấy với Thiên nhãn thuần tịnh, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang; người đẹp đẽ, kẻ thô xấu; người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Đây là Minh thứ hai vị ấy đã đạt được, vô minh diệt, minh khởi; bóng tối diệt, ánh sáng sanh đối với vị an trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

          Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí. Vị ấy rõ biết như thật: “Đây là khổ”, rõ biết như thật: “Đây là nguyên nhân của khổ”, rõ biết như thật: “Đây là khổ diệt”, rõ biết như thật: “Đây là con đường đưa đến khổ diệt”; rõ biết như thật: “Đây là những lậu hoặc”, rõ biết như thật: “Đây là nguyên nhân các lậu hoặc”, rõ biết như thật: “Đây là sự diệt trừ các lậu hoặc”, rõ biết như thật: “Đây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc.”

          Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, vị ấy khởi lên sự hiểu biết: “Ta đã giải thoát.” Vị ấy biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa.” Đây là Minh thứ ba vị ấy đã đạt được, vô minh diệt, minh khởi; bóng tối diệt, ánh sáng sanh đối với vị an trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

                    Giới hạnh không cao thấp, 
                    Khôn khéo và thiền tịnh, 
                    Với tâm được chinh phục, 
                    Nhất tâm, khéo định tĩnh, 
                    Bậc trí đoạn mê ám, 
                    Ba minh diệt tử thần,
                    Vị ấy được tôn xưng, 
                    Đại hạnh cho trời, người, 
                    Bậc “Đoạn tận tất cả”, 
                    Đầy đủ cả Ba minh, 
                    An trú không mê vọng, 
                    Đức Phật, bậc Giác Ngộ, 
                    Bậc chứng thân tối hậu, 
                    Họ lễ Gotama.
                    Ai biết được đời trước, 
                    Thấy thiên giới, đọa giới, 
                    Vị ấy là Đạo sĩ,
                    Đoạn sanh, đạt thắng trí. 
                    Vị Bà-la-môn nào, 
                    Chứng được Ba minh này, 
                    Ta gọi là Ba minh,
                    Không như thường được gọi.

          Như vậy, này Bà-la-môn, là Ba minh trong Luật của bậc Thánh.

          – Thật khác, thưa Tôn giả Gotama, là Ba minh của các Bà-la-môn! Thật khác là Ba minh trong Luật của bậc Thánh! Và thưa Tôn giả Gotama, người có được Ba minh của các Bà-la-môn không sánh bằng một phần mười sáu của vị chứng Ba minh trong Luật của bậc Thánh.

          Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả Gotama! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, hay cầm đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, pháp được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Con nay xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mệnh chung, con trọn đời quy ngưỡng.

Tham khảo:

75 Tham chiếu: Tạp. 雜 (T.02. 0099.884-885. 0223b03-12). 

76 Saṃsuddhagahaṇika. Xem D. I. 113.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.