Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng thánh điển PGVN 10 » Tạng Tam Tạng Thượng Toạn Bộ 10 »

PHÂN TÍCH GIỚI BỔN 
(Suttavibhaṅga)
Tỳ-Khưu INDACANDA

Mục Lục

6.7.10. ĐIỀU HỌC VỀ SA-DI KAṆṬAKA

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, Sa-di tên Kaṇṭaka có tà kiến ác sanh khởi như vầy: “Theo như ta hiểu về pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.” Nhiều vị Tỳ-khưu đã nghe được rằng: “Nghe nói Sa-di tên Kaṇṭaka đã có tà kiến ác sanh khởi như vầy: ‘Theo như ta hiểu về pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’” Sau đó, các Tỳ-khưu ấy đã đi đến gặp Sa-di tên Kaṇṭaka, sau khi đến đã nói với Sa-di tên Kaṇṭaka điều này:

– Này Sa-di Kaṇṭaka, nghe nói ngươi đã có tà kiến ác sanh khởi như vầy: “Theo như ta hiểu về pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành”, có đúng không vậy?

– Thưa các ngài, đúng như vậy. Theo như tôi hiểu về pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.

2. – Này Sa-di Kaṇṭaka, chớ có nói như thế. Chớ có vu khống đức Thế Tôn, bởi vì việc vu khống đức Thế Tôn là không tốt. Bởi vì đức Thế Tôn không có nói như thế. Này Sa-di Kaṇṭaka, đức Thế Tôn đã giảng giải bằng nhiều phương thức rằng: Các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành. Đức Thế Tôn đã giảng giải rằng: Dục tình chỉ có chút ít khoái lạc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là bộ xương, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. ...(nt)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là đầu rắn độc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn.

Khi được các vị Tỳ-khưu ấy nói như thế, Sa-di Kaṇṭaka do có sự ngoan cố, chấp giữ và bảo thủ tà kiến ác ấy nên vẫn phát biểu giống như thế: “Thưa các ngài, đúng như vậy. Theo như tôi hiểu về pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.”

3. Và như thế, các vị Tỳ-khưu ấy đã không thể giúp cho Sa-di Kaṇṭaka thoát khỏi tà kiến ác ấy. Sau đó, các vị Tỳ-khưu ấy đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng Tỳ-khưu lại và đã hỏi Sa-di Kaṇṭaka rằng:

– Này Kaṇṭaka, nghe nói tà kiến ác đã sanh khởi ở ngươi như vầy: “Theo như ta hiểu về pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành”, có đúng không vậy?

– Bạch Ngài, đúng như vậy. Theo như con hiểu về pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.

4. – Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại hiểu pháp được Ta thuyết giảng là như thế? Này kẻ rồ dại, không phải Ta đã giảng giải bằng nhiều phương thức rằng: Các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành? Dục tình đã được Ta giảng giải là chỉ có chút ít khoái lạc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Dục tình đã được Ta giảng giải như là bộ xương, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. ...(nt)... Dục tình đã được Ta giảng giải như là đầu rắn độc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Và này kẻ rồ dại, hơn nữa ngươi không những vu khống Ta do sự hiểu biết sai lạc của bản thân mà ngươi còn làm tổn hại chính bản thân và tích lũy nhiều điều vô phước nữa. Này kẻ rồ dại, bởi vì điều ấy sẽ đem lại cho ngươi sự thất bại và khổ đau lâu dài. Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(nt)...

Sau khi khiển trách, Ngài đã nói pháp thoại, rồi bảo các Tỳ-khưu rằng:

– Này các Tỳ-khưu, như thế thì hội chúng hãy trục xuất Sa-di Kaṇṭaka. Và này các Tỳ-khưu, nên trục xuất như vầy: “Này Sa-di Kaṇṭaka, kể từ hôm nay, không được tuyên bố đức Thế Tôn ấy là bậc Đạo sư của ngươi nữa. Ngay cả việc các Sa-di khác được hưởng là việc nằm chung chỗ ngụ với các Tỳ-khưu hai ba đêm, việc ấy không có cho ngươi nữa. Hãy đi chỗ khác, hãy biến mất đi.”

Sau đó, hội chúng đã trục xuất Sa-di Kaṇṭaka. Vào lúc bấy giờ, các Tỳ-khưu nhóm Lục Sư trong khi biết Sa-di Kaṇṭaka là kẻ đã bị trục xuất như thế mà vẫn dụ dỗ, vẫn bảo phục vụ, vẫn hưởng thụ chung, vẫn nằm chung chỗ ngụ. Các Tỳ-khưu ít ham muốn, ...(nt)... các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: “Vì sao các Tỳ-khưu nhóm Lục Sư trong khi biết Sa-di Kaṇṭaka là kẻ đã bị trục xuất như thế mà vẫn dụ dỗ, vẫn bảo phục vụ, vẫn hưởng thụ chung, vẫn nằm chung chỗ ngụ?” ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, nghe nói các ngươi trong khi biết Sa-di Kaṇṭaka là kẻ đã bị trục xuất như thế mà vẫn dụ dỗ, vẫn bảo phục vụ, vẫn hưởng thụ chung, vẫn nằm chung chỗ ngụ, có đúng không vậy?

– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

– ...(nt)... Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi trong khi biết Sa-di Kaṇṭaka là kẻ đã bị trục xuất như thế mà vẫn dụ dỗ, vẫn bảo phục vụ, vẫn hưởng thụ chung, vẫn nằm chung chỗ ngụ vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(nt)... Và này các Tỳ-khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

Nếu có vị Sa-di nói như vầy: ‘Theo như ta hiểu về pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’ Vị Sa-di ấy nên được nói bởi các Tỳ-khưu như sau: ‘Này ông Sa-di, ngươi chớ có nói như thế. Chớ có vu khống đức Thế Tôn, bởi vì việc vu khống đức Thế Tôn là không tốt. Bởi vì đức Thế Tôn không có nói như thế. Này ông Sa-di, đức Thế Tôn đã giảng giải bằng nhiều phương thức rằng: Các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’ Và khi được các Tỳ-khưu nói như vậy mà vị Sa-di ấy vẫn chấp giữ y như thế, vị Sa-di ấy nên được nói bởi các Tỳ-khưu như sau: ‘Này ông Sa-di, kể từ hôm nay, không được tuyên bố đức Thế Tôn ấy là bậc Đạo sư của ngươi nữa. Ngay cả việc các Sa-di khác được hưởng là việc nằm chung chỗ ngụ với các Tỳ-khưu hai ba đêm, việc ấy không có cho ngươi nữa. Hãy đi chỗ khác, hãy biến mất đi.’ Vị Tỳ-khưu nào trong khi biết vị Sa-di là kẻ đã bị trục xuất như thế mà vẫn dụ dỗ, hoặc vẫn bảo phục vụ, hoặc vẫn hưởng thụ chung, hoặc vẫn nằm chung chỗ ngụ thì phạm tội Pācittiya.

6.[1] Vị Sa-di nghĩa là vị Sāmaṇera được nói đến.

Nói như vầy: “Theo như ta hiểu về pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.”

Vị Sa-di ấy: Là vị Sa-di nói như thế.

Bởi các Tỳ-khưu: Bởi các Tỳ-khưu khác. Các vị nào thấy, các vị nào nghe, các vị ấy nên nói rằng: “Này ông Sa-di, ngươi chớ có nói như thế. Chớ có vu khống đức Thế Tôn, bởi vì việc vu khống đức Thế Tôn là không tốt. Bởi vì đức Thế Tôn không có nói như thế. Này ông Sa-di, đức Thế Tôn đã giảng giải bằng nhiều phương thức rằng: Các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu [vị Sa-di ấy] dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì vị Sa-di ấy nên được nói bởi các Tỳ-khưu như sau: “Này ông Sa-di, kể từ hôm nay, không được tuyên bố đức Thế Tôn ấy là bậc Đạo sư của ngươi nữa, và việc các Sa-di khác được hưởng là việc nằm chung chỗ ngụ với các Tỳ-khưu hai ba đêm, ngay cả việc ấy không có cho ngươi nữa. Hãy đi chỗ khác, hãy biến mất đi.”

Vị nào: Là bất cứ vị nào ...(nt).

Tỳ-khưu: ...(nt)... Vị này là “vị Tỳ-khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.

Biết nghĩa là tự mình biết, hoặc những người khác thông báo cho vị ấy, hoặc là vị kia thông báo.

Đã bị trục xuất như thế: Đã bị trục xuất như vậy. 

Vị Sa-di nghĩa là vị Sāmaṇera được nói đến.

Hoặc vẫn dụ dỗ: Vị dụ dỗ [nói rằng]: “Ta sẽ cho ngươi bình bát, hoặc y, hoặc sự đọc tụng, hoặc sự hỏi han” thì phạm tội Pācittiya.

Hoặc vẫn bảo phục vụ: Vị chấp nhận bột tắm, hoặc đất sét, hoặc gỗ chà răng, hoặc nước rửa mặt của vị [Sa-di] ấy thì phạm tội Pācittiya.

Hoặc vẫn hưởng thụ chung: Sự hưởng thụ chung, nghĩa là có hai sự hưởng thụ chung: Sự hưởng thụ chung về vật chất và sự hưởng thụ chung về pháp. Sự hưởng thụ chung về vật chất nghĩa là vị cho hoặc thọ nhận vật chất thì phạm tội Pācittiya. Sự hưởng thụ chung về pháp nghĩa là vị đọc tụng hoặc bảo đọc tụng. Vị đọc tụng hoặc bảo đọc tụng theo câu thì phạm tội Pācittiya theo mỗi một câu. Vị đọc tụng hoặc bảo đọc tụng theo từ thì phạm tội Pācittiya theo mỗi một từ.

Hoặc vẫn nằm chung chỗ ngụ: Ở chỗ chung mái che, khi vị Sa-di bị trục xuất đang nằm, vị Tỳ-khưu nằm xuống thì phạm tội Pācittiya. Khi vị Tỳ-khưu đang nằm, vị Sa-di bị trục xuất nằm xuống thì phạm tội Pācittiya. Hoặc cả hai nằm xuống thì phạm tội Pācittiya. Sau khi đứng dậy, [cả hai] lại nằm xuống thì phạm tội Pācittiya.

Vị bị trục xuất, nhận biết là bị trục xuất, vị dụ dỗ, hoặc bảo phục vụ, hoặc hưởng thụ chung, hoặc nằm chung chỗ ngụ thì phạm tội Pācittiya. Vị bị trục xuất, có sự hoài nghi, vị dụ dỗ, hoặc bảo phục vụ, hoặc hưởng thụ chung, hoặc nằm chung chỗ ngụ thì phạm tội Dukkaṭa. Vị bị trục xuất, [lầm] tưởng là không bị trục xuất, vị dụ dỗ, hoặc bảo phục vụ, hoặc hưởng thụ chung, hoặc nằm chung chỗ ngụ thì vô tội.

Vị không bị trục xuất, [lầm] tưởng là bị trục xuất thì phạm tội Dukkaṭa. Vị không bị trục xuất, có sự hoài nghi thì phạm tội Dukkaṭa. Vị không bị trục xuất, nhận biết là không bị trục xuất thì vô tội.

Vị biết rằng: “Vị [Sa-di] không bị trục xuất”, vị biết rằng: “Vị [Sa-di] đã dứt bỏ tà kiến ấy”, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.

Điều học về vị Kaṇṭaka là thứ mười.

Phẩm Có sinh vật là thứ mười.

--oo0oo--

Cố ý giết hại, có sinh vật, được khơi lại, sự che giấu tội xấu xa, chưa đủ hai mươi tuổi, và đám người, sự hẹn trước, vị Arittha, vị bị án treo và Sa-di Kantaka nữa, đây là mười điều học.

--oo0oo--

 

Chú thích

[1] Do đánh số nhầm từ bản gốc Pāli (không có số 5), nên dịch giả giữ nguyên số lại như vậy để dễ đối chiếu (BBT).