Tam tạng thánh điển PGVN 10 » Tạng Tam Tạng Thượng Toạn Bộ 10 »
PHÂN TÍCH GIỚI BỔN
(Suttavibhaṅga)
Tỳ-Khưu INDACANDA
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, y ngoài hạn kỳ đã phát sanh đến vị Tỳ-khưu nọ. Y ấy trong khi được may cho vị ấy thì không đủ. Khi ấy, vị Tỳ-khưu ấy căng y ấy ra rồi vuốt tới vuốt lui cho thẳng. Đức Thế Tôn trong khi đi dạo quanh các trú xá đã nhìn thấy vị Tỳ-khưu ấy sau khi căng y ấy ra đang vuốt tới vuốt lui cho thẳng, sau khi nhìn thấy đã đi đến gặp vị Tỳ-khưu ấy, sau khi đến đã nói với vị Tỳ-khưu ấy điều này:
– Này Tỳ-khưu, vì sao ngươi lại căng y ấy ra rồi vuốt tới vuốt lui cho thẳng vậy?
– Bạch ngài, y ngoài thời hạn này đã phát sanh đến con, trong khi được may lại không đủ. Chính vì thế nên con căng y này ra rồi vuốt tới vuốt lui cho thẳng.
– Này Tỳ-khưu, ngươi có sự mong mỏi về y không?
– Bạch Thế Tôn, thưa có.
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã nói pháp thoại, rồi bảo các Tỳ-khưu rằng:
– Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép sau khi thọ lãnh y ngoài hạn kỳ thì được giữ lại với sự mong mỏi về y.
2. Vào lúc bấy giờ, các Tỳ-khưu [nghĩ rằng]: “Đức Thế Tôn đã cho phép sau khi thọ lãnh y ngoài hạn kỳ thì được giữ lại với sự mong mỏi về y” nên khi thọ lãnh y ngoài hạn kỳ thì giữ lại hơn một tháng. Các y ấy được buộc thành đống, treo ở sào máng y. Đại đức Ānanda trong khi đi dạo quanh các trú xá đã nhìn thấy các y ấy được buộc thành đống, treo ở sào máng y, sau khi nhìn thấy đã nói với các Tỳ-khưu rằng:
– Này các Đại đức, các y đã được buộc thành đống, treo ở sào máng y là của vị nào vậy?
– Này Đại đức, chúng là các y ngoài hạn kỳ của chúng tôi đã được giữ lại với sự mong mỏi về y.
– Này các Đại đức, vậy các y này đã được giữ lại bao lâu rồi?
– Này Đại đức, hơn một tháng.
Đại đức Ānanda phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: “Vì sao các Tỳ-khưu sau khi thọ lãnh y ngoài hạn kỳ rồi giữ lại hơn một tháng?” Sau đó, Đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, nghe nói các Tỳ-khưu sau khi thọ lãnh y ngoài hạn kỳ rồi giữ lại hơn một tháng, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này các Tỳ-khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy sau khi thọ lãnh y ngoài hạn kỳ rồi giữ lại hơn một tháng vậy? Này các Tỳ-khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(nt)... Và này các Tỳ-khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Khi vấn đề y đã được dứt điểm đối với vị Tỳ-khưu, tức là khi Kaṭhina đã hết hiệu lực, lại có y ngoài hạn kỳ phát sanh đến vị Tỳ-khưu, vị Tỳ-khưu đang mong muốn thì nên thọ lãnh. Sau khi thọ lãnh nên bảo thực hiện ngay lập tức, và nếu không đủ thì vị Tỳ-khưu ấy nên giữ lại y ấy tối đa một tháng khi có sự mong mỏi làm cho đủ phần thiếu hụt; nếu giữ lại quá hạn ấy, mặc dầu có sự mong mỏi, [y ấy] nên được xả bỏ và [vị ấy] phạm tội Pācittiya.”
3. Khi vấn đề y đã được dứt điểm: Y của vị Tỳ-khưu đã được làm xong, hoặc là đã bị mất, hoặc là đã bị hư hỏng, hoặc là đã bị cháy, hoặc là niềm mong mỏi về y đã bị tan vỡ.
Khi Kaṭhina đã hết hiệu lực: Là đã hết hiệu lực do bất cứ tiêu đề nào trong tám tiêu đề, hoặc là đã hết hiệu lực giữa chừng do hội chúng.
Y ngoài hạn kỳ nghĩa là khi Kaṭhina không thành tựu thì được phát sanh trong mười một tháng, khi Kaṭhina thành tựu thì được phát sanh trong bảy tháng; [y] được dâng xác định trong thời gian trên thì [y] ấy gọi là y ngoài hạn kỳ.
Phát sanh: Là phát sanh từ hội chúng, hoặc từ nhóm, hoặc từ thân quyến, hoặc từ bạn bè, hoặc từ vải quăng bỏ,[1] hoặc từ vật sở hữu của bản thân.[2]
Đang mong muốn: Vị đang ước muốn thì nên thọ lãnh.
Sau khi thọ lãnh nên bảo thực hiện ngay lập tức: Nên bảo thực hiện trong mười ngày.
Nếu không đủ: Trong khi được may thì không đủ [y chưa hoàn thành].
Vị Tỳ-khưu ấy nên giữ lại y ấy tối đa một tháng: Nên giữ lại nhiều nhất là một tháng.
Làm cho đủ phần thiếu hụt: Với mục đích làm cho đủ phần thiếu hụt.
Khi có sự mong mỏi: Là sự mong mỏi [y] từ hội chúng, hoặc từ nhóm, hoặc từ thân quyến, hoặc từ bạn bè, hoặc từ vải quăng bỏ, hoặc từ vật sở hữu của bản thân.
Nếu giữ lại quá hạn ấy mặc dầu có sự mong mỏi: Khi y căn bản được phát sanh ngày ấy [và] y mong mỏi được phát sanh [cùng ngày] thì nên bảo thực hiện trong mười ngày. Khi y căn bản được phát sanh hai ngày, rồi y mong mỏi được phát sanh thì nên bảo thực hiện trong mười ngày. Khi y căn bản được phát sanh ba ngày... được phát sanh bốn ngày... được phát sanh năm ngày... được phát sanh sáu ngày... được phát sanh bảy ngày... được phát sanh tám ngày... được phát sanh chín ngày... được phát sanh mười ngày, rồi y mong mỏi được phát sanh thì nên bảo thực hiện trong mười ngày.
Khi y căn bản được phát sanh mười một ngày... được phát sanh mười hai ngày... được phát sanh mười ba ngày... được phát sanh mười bốn ngày ... được phát sanh mười lăm ngày... được phát sanh mười sáu ngày... được phát sanh mười bảy ngày... được phát sanh mười tám ngày... được phát sanh mười chín ngày... được phát sanh hai mươi ngày, rồi y mong mỏi được phát sanh thì nên bảo thực hiện trong mười ngày.
Khi y căn bản được phát sanh hai mươi mốt ngày thì nên bảo thực hiện trong chín ngày. Khi y căn bản được phát sanh hai mươi hai ngày... được phát sanh hai mươi ba ngày... được phát sanh hai mươi bốn ngày... được phát sanh hai mươi lăm ngày... được phát sanh hai mươi sáu ngày... được phát sanh hai mươi bảy ngày... được phát sanh hai mươi tám ngày... được phát sanh hai mươi chín ngày, rồi y mong mỏi được phát sanh thì nên bảo thực hiện trong một ngày. Khi y căn bản được phát sanh ba mươi ngày, rồi y mong mỏi được phát sanh, thì ngay trong ngày ấy [y căn bản] nên được chú nguyện để dùng riêng, nên được chú nguyện để dùng chung, nên được phân phát. Nếu vị không chú nguyện để dùng riêng, hoặc không chú nguyện để dùng chung, hoặc không phân phát, đến lúc hừng đông vào ngày thứ ba mươi mốt thì [y căn bản] phạm vào tội Nissaggiya, nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân.
Và này các Tỳ-khưu, nên được xả bỏ như vầy: ...(nt)... “Bạch các ngài, y ngoài hạn kỳ này của tôi đã quá hạn một tháng, cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng.” ...(nt)... hội chúng nên cho lại ...(nt)... chư Đại đức nên cho lại ...(nt)... “Tôi cho lại Đại đức.”
4. Khi y căn bản được phát sanh là khác phẩm chất, rồi y mong mỏi được phát sanh và còn lại nhiều đêm, không nên bảo thực hiện trái với ước muốn.[3]
5. Khi quá hạn một tháng, nhận biết là đã quá hạn thì phạm tội Nissaggiya Pācittiya. Khi quá hạn một tháng, có sự hoài nghi, ... Khi quá hạn một tháng, [lầm] tưởng là chưa quá hạn, ... Khi chưa được chú nguyện để dùng riêng, [lầm] tưởng là đã được chú nguyện để dùng riêng, ... Khi chưa được chú nguyện để dùng chung, [lầm] tưởng là đã được chú nguyện để dùng chung, ...Khi chưa được phân phát, [lầm] tưởng là đã được phân phát, ... Khi không bị mất trộm, [lầm] tưởng là đã bị mất trộm, ... Khi không bị hư hỏng, [lầm] tưởng là đã bị hư hỏng, ... Khi không bị cháy, [lầm] tưởng là đã bị cháy, ... Khi không bị cướp, [lầm] tưởng là đã bị cướp thì phạm tội Nissaggiya Pācittiya.
6. Y phạm vào tội Nissaggiya, không xả bỏ rồi sử dụng thì phạm tội Dukkaṭa. Khi chưa quá hạn một tháng, [lầm] tưởng là đã quá hạn thì phạm tội Dukkaṭa. Khi chưa quá hạn một tháng, có sự hoài nghi thì phạm tội Dukkaṭa. Khi chưa quá hạn một tháng, nhận biết là chưa quá hạn thì vô tội.
7. Trong thời hạn một tháng, vị chú nguyện để dùng riêng, vị chú nguyện để dùng chung, vị phân phát, [y] bị mất trộm, [y] bị hư hỏng, [y] bị cháy, [những người khác] cướp rồi lấy đi, [các vị khác] lấy do sự thân thiết, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ ba về Kaṭhina.
--oo0oo--
Chú thích
[1] Vải quăng bỏ (paṃsukūla) được phát sanh lên do nhiều cách thức. Một trong những cách thức đã được các Tỳ-khưu thời ấy áp dụng là đi vào mộ địa nhặt lấy các vải quấn tử thi đem về giặt sạch, cắt may thành y, nhuộm màu, v.v... (ND).
[2] Ngài Buddhaghosa giải thích “Từ vật sở hữu của bản thân” là phát sanh lên do bông vải, chỉ sợi, v.v... của bản thân (VinA. III. 659).
[3] Ngài Buddhaghosa giải thích như sau: “Nếu y căn bản là mịn và y mong mỏi là thô, không thể kết hợp với nhau, và còn lại nhiều đêm nhưng vẫn không đủ cho đến hết tháng thì không nên cho thực hiện y trái với ước muốn, lại còn bị sự chê bai nữa. Nên chờ cho đến khi nhận lãnh y mong mỏi khác nữa rồi cho thực hiện trong khoảng thời gian [cho phép]. Cũng nên chú nguyện y mong mỏi làm vải phụ tùng (parikkhāracoḷaṃ). Nếu y căn bản là thô và y mong mỏi là mịn thì nên chú nguyện y căn bản làm vải phụ tùng, rồi lấy y mong mỏi làm y căn bản và giữ lại. Bằng phương thức này thì đạt được lại cả tháng ấy để giữ lại y” (VinA. III. 659). Có thể hiểu lời giải thích trên như sau: Trong vòng 20 ngày đầu, tính từ lúc y căn bản được phát sanh, nếu y mong mỏi được phát sanh thì số ngày để giữ y căn bản không còn đủ 30 ngày [mà chỉ còn 10 ngày, phù hợp với thời gian cất giữ của y mới được phát sanh chỉ được tối đa là 10 ngày]. Như vậy, hoặc là hy vọng trong 10 ngày còn lại sẽ có thêm y mong mỏi khác cùng loại, hoặc là chú nguyện y mong mỏi thành vải phụ tùng để y căn bản có thể tiếp tục giữ được đủ 30 ngày. Trường hợp y mong mỏi là tốt hơn thì có thể lấy y mong mỏi mới phát sanh làm y căn bản và nguyện y căn bản làm vải phụ tùng, như thế sẽ được tính đủ 30 ngày.