Tam tạng thánh điển PGVN 10 » Tạng Tam Tạng Thượng Toạn Bộ 10 »
PHÂN TÍCH GIỚI BỔN
(Suttavibhaṅga)
Tỳ-Khưu INDACANDA
5.1. PHẨM Y
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Vesālī, ở tháp thờ Gotamaka. Vào lúc bấy giờ, ba y đã được đức Thế Tôn cho phép đến các Tỳ-khưu. Các Tỳ-khưu nhóm Lục Sư [nghĩ rằng]: “Ba y đã được đức Thế Tôn cho phép” nên đi vào làng với ba y nọ, mặc ở trong tu viện với ba y khác, và đi xuống tắm với ba y khác nữa. Các Tỳ-khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: “Tại sao các Tỳ-khưu nhóm Lục Sư lại sử dụng y phụ trội?” Sau đó, các vị Tỳ-khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, nghe nói các ngươi sử dụng y phụ trội, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại sử dụng y phụ trội vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(nt)... Và này các Tỳ-khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị Tỳ-khưu nào sử dụng y phụ trội thì phạm tội Nissaggiya Pācittiya.”
Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các Tỳ-khưu như thế.
[Sự quy định căn bản]
2. Vào lúc bấy giờ, có y phụ trội phát sanh đến Đại đức Ānanda. Đại đức Ānanda có ý định dâng y ấy đến Đại đức Sāriputta. Và Đại đức Sāriputta cư ngụ ở Sāketa. Khi ấy, Đại đức Ānanda đã khởi ý điều này: “Điều học đã được đức Thế Tôn quy định là: ‘Không được sử dụng y phụ trội’ và y phụ trội này đã được phát sanh đến ta. Và ta có ý định dâng y này đến Đại đức Sāriputta mà Đại đức Sāriputta cư ngụ ở Sāketa; vậy ta nên thực hành như thế nào?” Sau đó, Đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này Ānanda, bao lâu nữa Sāriputta sẽ đi đến đây?
– Bạch Thế Tôn, ngày thứ chín hoặc ngày thứ mười.
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã nói pháp thoại, rồi bảo các Tỳ-khưu rằng:
– Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép cất giữ[1] y phụ trội tối đa mười ngày. Và này các Tỳ-khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Khi vấn đề y đã được dứt điểm đối với vị Tỳ-khưu, tức là khi Kaṭhina đã hết hiệu lực, y phụ trội được cất giữ tối đa mười ngày. Vượt quá hạn ấy thì [y ấy] nên được xả bỏ và [vị ấy] phạm tội Pācittiya.”[2]
[Sự quy định lần hai]
3. Khi vấn đề y đã được dứt điểm: Y của vị Tỳ-khưu đã được làm xong, hoặc là đã bị mất, hoặc là đã bị hư hỏng, hoặc là đã bị cháy, hoặc là niềm mong mỏi về y đã bị tan vỡ.
Khi Kaṭhina đã hết hiệu lực: Là đã hết hiệu lực do bất cứ tiêu đề nào trong tám tiêu đề,[3] hoặc là đã hết hiệu lực giữa chừng do hội chúng.[4]
Tối đa mười ngày: Là được cất giữ nhiều nhất là mười ngày.
Y phụ trội nghĩa là chưa được chú nguyện để dùng riêng, chưa được chú nguyện để dùng chung.
Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y[5] [có kích thước] tối thiểu[6] cần phải chú nguyện để dùng chung.
Vượt quá hạn ấy thì [y ấy] nên được xả bỏ: Đến lúc hừng đông ngày thứ mười một thì phạm vào tội Nissaggiya, [y ấy] cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các Tỳ-khưu, nên được xả bỏ như vầy: Vị Tỳ-khưu ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các Tỳ-khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên và nên nói như vầy: “Bạch các ngài, y này của tôi đã quá hạn mười ngày, cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ [y] này đến hội chúng.” Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị Tỳ-khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực và y đã xả bỏ nên được cho lại:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Y này thuộc về vị Tỳ-khưu tên [như vầy], là vật phạm vào Nissaggiya đã được xả bỏ đến hội chúng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho lại y này đến vị Tỳ-khưu tên [như vầy].”
4. Vị Tỳ-khưu ấy nên đi đến nhiều vị Tỳ-khưu, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các Tỳ-khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên và nên nói như vầy: “Bạch các ngài, y này của tôi đã quá hạn mười ngày, cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến các Đại đức.” Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị Tỳ-khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực và y đã xả bỏ nên được cho lại:
“Xin chư Đại đức hãy lắng nghe tôi. Y này thuộc về vị Tỳ-khưu tên [như vầy], là vật phạm vào tội Nissaggiya đã được xả bỏ đến chư Đại đức. Nếu là thời điểm thích hợp cho chư Đại đức, chư Đại đức nên cho lại y này đến vị Tỳ-khưu tên [như vầy].”
5. Vị Tỳ-khưu ấy nên đi đến một vị Tỳ-khưu, đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên và nên nói như vầy: “Bạch Đại đức, y này của tôi đã quá hạn mười ngày, cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến Đại đức.” Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị Tỳ-khưu ấy và y đã xả bỏ nên được cho lại: “Tôi cho lại Đại đức y này.”
6. Khi quá hạn mười ngày, nhận biết là đã quá hạn thì phạm tội Nissaggiya Pācittiya. Khi quá hạn mười ngày, có sự hoài nghi thì phạm tội Nissaggiya Pācittiya. Khi quá hạn mười ngày, [lầm] tưởng là chưa quá hạn thì phạm tội Nissaggiya Pācittiya. Khi chưa được chú nguyện để dùng riêng, [lầm] tưởng là đã được chú nguyện để dùng riêng thì phạm tội Nissaggiya Pācittiya. Khi chưa được chú nguyện để dùng chung, [lầm] tưởng là đã được chú nguyện để dùng chung thì phạm tội Nissaggiya Pācittiya. Khi chưa được phân phát, [lầm] tưởng là đã được phân phát thì phạm tội Nissaggiya Pācittiya. Khi không bị mất trộm, [lầm] tưởng là đã bị mất trộm thì phạm tội Nissaggiya Pācittiya. Khi không bị hư hỏng, [lầm] tưởng là đã bị hư hỏng thì phạm tội Nissaggiya Pācittiya. Khi không bị cháy, [lầm] tưởng là đã bị cháy thì phạm tội Nissaggiya Pācittiya. Khi không bị cướp, [lầm] tưởng là đã bị cướp thì phạm tội Nissaggiya Pācittiya. Y phạm vào tội Nissaggiya, không xả bỏ rồi sử dụng thì phạm tội Dukkaṭa. Khi chưa quá hạn mười ngày, [lầm] tưởng là đã quá hạn thì phạm tội Dukkaṭa. Khi chưa quá hạn mười ngày, có sự hoài nghi thì phạm tội Dukkaṭa. Khi chưa quá hạn mười ngày, nhận biết là chưa quá hạn thì vô tội.
7. Trong thời hạn mười ngày, vị chú nguyện để dùng riêng, vị chú nguyện để dùng chung, vị phân phát, [y] bị mất trộm, [y] bị hư hỏng, [y] bị cháy, [những người khác] cướp rồi lấy đi, [các vị khác] lấy do sự thân thiết, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
8. Vào lúc bấy giờ, các Tỳ-khưu nhóm Lục Sư không cho lại y đã được xả bỏ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các Tỳ-khưu, không nên không cho lại y đã được xả bỏ; vị nào không cho lại thì phạm tội Dukkaṭa.
Dứt điều học thứ nhất về Kaṭhina.
--oo0oo--
[1] Động từ Dhāreti có nghĩa chính là “mang, mặc, v.v...” nhưng để phù hợp với ngữ cảnh, từ dịch Việt đã được biến đổi ít nhiều như là “cất giữ, sử dụng, v.v...”
[2] Nissaggiya Pācittiya có hai phần: Nissaggiya liên quan đến đồ vật cần được xả bỏ, Pācittiya là tội ưng đối trị.
[3] Tám tiêu đề (Mātikā) về sự hết hiệu lực của Kaṭhina: Do sự ra đi, do [y] được hoàn tất, do tự mình quyết định, do bị mất, do nghe được [tin], do sự tan vỡ của niềm mong mỏi, do sự vượt qua ranh giới, do sự hết hiệu lực cùng một lúc (TTTĐPGVN, tập 11, tr. 328; TTPV, tập 5, Mv. II, chương VII, tr. 116).
[4] Hội chúng thực hiện hành sự thâu hồi, khiến Kaṭhina hết hiệu lực (ND).
[5] Sáu loại y: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép sáu loại y: Loại bằng sợi lanh, loại bằng bông vải, loại bằng tơ lụa, loại bằng sợi len, loại bằng gai thô, loại bằng chỉ bố” (TTTĐPGVN, tập 11, tr. 366; TTPV, tập 5, Mv. II, chương VII, tr. 183).
[6] Chú nguyện để dùng chung: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép chú nguyện để dùng chung y [có kích thước] tối thiểu với chiều dài là tám ngón tay với chiều rộng là bốn ngón tay theo ngón tay tiêu chuẩn” (TTTĐPGVN, tập 11, tr. 384; TTPV, tập 5, Mv. II, chương VIII, tr. 213).