Tam tạng thánh điển PGVN 10 » Tạng Tam Tạng Thượng Toạn Bộ 10 »
PHÂN TÍCH GIỚI BỔN
(Suttavibhaṅga)
Tỳ-Khưu INDACANDA
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, Tỳ-khưu-ni Caṇḍakāḷī bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy:
– Các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì thương, các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì ghét, các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì si mê, các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì sợ hãi.
2. Các Tỳ-khưu-ni nào ít ham muốn, ...(nt)... các vị Ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: “Vì sao Ni sư Caṇḍakāḷī bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: Các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì thương, ...(nt)... các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì sợ hãi?” ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, nghe nói Tỳ-khưu-ni Caṇḍakāḷī bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: “Các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì thương, ...(nt)... các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì sợ hãi”, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– ...(nt)... Này các Tỳ-khưu, vì sao Tỳ-khưu-ni Caṇḍakāḷī bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: “Các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì thương, ...(nt)... các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì sợ hãi?” Này các Tỳ-khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(nt)... Và này các Tỳ-khưu, các Tỳ-khưu-ni hãy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị Tỳ-khưu-ni nào bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: ‘Các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì thương, các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì ghét, các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì si mê, các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì sợ hãi.’ Vị Tỳ-khưu-ni ấy nên được nói bởi các Tỳ-khưu-ni như sau: ‘Này Ni sư, khi bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó rồi nổi giận, bất bình, chớ nên nói như vầy: ‘Các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì thương, các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì ghét, các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì si mê, các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì sợ hãi.’ Chính Ni sư mới thiên vị vì thương, mới thiên vị vì ghét, mới thiên vị vì si mê, mới thiên vị vì sợ hãi.’ Và khi được nói như vậy bởi các Tỳ-khưu-ni mà vị Tỳ-khưu-ni ấy vẫn chấp giữ y như thế, vị Tỳ-khưu-ni ấy nên được các Tỳ-khưu-ni nhắc nhở đến lần thứ ba để từ bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ, vị Tỳ-khưu-ni này cũng phạm tội [khi được nhắc nhở] đến lần thứ ba, là tội Saṅghādisesa, cần được tách riêng.”
3. Vị Ni nào: Là bất cứ vị Ni nào ...(nt).
Tỳ-khưu-ni: ...(nt)... vị Ni này là “vị Tỳ-khưu-ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Trong cuộc tranh tụng nào đó: Tranh tụng nghĩa là có bốn sự tranh tụng: Sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, sự tranh tụng liên quan đến tội, sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ.
Bị xử thua nghĩa là bị thất bại được đề cập đến.
Nổi giận, bất bình: Không được hài lòng, có tâm bực bội, nảy sanh lòng cay cú.
Nói như vầy: “Các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì thương, các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì ghét, các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì si mê, các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì sợ hãi.”
Vị Tỳ-khưu-ni ấy: Là vị Tỳ-khưu-ni nói như thế ấy.
Bởi các Tỳ-khưu-ni: Bởi các Tỳ-khưu-ni khác. Các vị Ni nào thấy, các vị Ni nào nghe, các vị Ni ấy nên nói rằng: “Này Ni sư, khi bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó rồi nổi giận, bất bình, chớ nên nói như vầy: ‘Các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì thương, ...(nt)... các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì sợ hãi.’ Chính Ni sư mới thiên vị vì thương, mới thiên vị vì ghét, mới thiên vị vì si mê, mới thiên vị vì sợ hãi.” Nên được nói đến lần thứ nhì ...(nt)... Nên được nói đến lần thứ ba ...(nt)... Nếu [vị Ni ấy] dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội Dukkaṭa. Các vị Ni sau khi nghe mà không nói thì phạm tội Dukkaṭa. Vị Tỳ-khưu-ni ấy nên được kéo đến giữa hội chúng rồi nên được nói rằng: “Này Ni sư, khi bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó rồi nổi giận, bất bình, chớ nên nói như vầy: ‘Các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì thương, ...(nt)... các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì sợ hãi.’ Chính Ni sư mới thiên vị vì thương, ...(nt)... mới thiên vị vì sợ hãi.” Nên được nói đến lần thứ nhì ...(nt)... Nên được nói đến lần thứ ba ...(nt)... Nếu [vị Ni ấy] dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội Dukkaṭa. Vị Tỳ-khưu-ni ấy cần được nhắc nhở. Và này các Tỳ-khưu, nên được nhắc nhở như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị Tỳ-khưu-ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch chư Đại đức Ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ-khưu-ni này tên [như vầy], bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: ‘Các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì thương, ...(nt)... các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì sợ hãi.’ Vị Ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở Tỳ-khưu-ni tên [như vầy] để dứt bỏ sự việc ấy. Đây là lời đề nghị.
Bạch chư Đại đức Ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ-khưu-ni này tên [như vầy], bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: ‘Các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì thương, ...(nt)... các Tỳ-khưu-ni có sự thiên vị vì sợ hãi.’ Vị Ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở Tỳ-khưu-ni tên [như vầy] để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức Ni nào đồng ý việc nhắc nhở Tỳ-khưu-ni tên [như vầy] để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị Ni nào không đồng ý có thể nói lên. Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: ...(nt)... Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: ...(nt)... Tỳ-khưu-ni tên [như vầy] đã được hội chúng nhắc nhở để dứt bỏ sự việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Do lời đề nghị thì phạm tội Dukkaṭa. Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội Thullaccaya. Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự thì phạm tội Saṅghādisesa. Đối với vị Ni vi phạm tội Saṅghādisesa, thì tội Dukkaṭa do lời đề nghị và các tội Thullaccaya do hai lời thông báo của hành sự hết hiệu lực.
Vị Ni này cũng: Được đề cập có liên quan đến các vị Ni trước đây.
[Khi được nhắc nhở] đến lần thứ ba: Vị Ni vi phạm tội do sự nhắc nhở đến lần thứ ba, không phải do thực hiện sự việc.
Cần được tách riêng: Bị tách riêng ra khỏi hội chúng.
Tội Saṅghādisesa: ...(nt)... vì thế được gọi là “tội Saṅghādisesa.”
Hành sự đúng pháp, nhận biết là hành sự đúng pháp, vị Ni không dứt bỏ thì phạm tội Saṅghādisesa. Hành sự đúng pháp, có sự hoài nghi, vị Ni không dứt bỏ thì phạm tội Saṅghādisesa. Hành sự đúng pháp, [lầm] tưởng là hành sự sai pháp, vị Ni không dứt bỏ thì phạm tội Saṅghādisesa.
Hành sự sai pháp, [lầm] tưởng là hành sự đúng pháp thì phạm tội Dukkaṭa. Hành sự sai pháp, có sự hoài nghi thì phạm tội Dukkaṭa. Hành sự sai pháp, nhận biết là hành sự sai pháp thì phạm tội Dukkaṭa.
Vị Ni chưa được nhắc nhở, vị Ni dứt bỏ, vị Ni bị điên, ...(nt)... vị Ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Điều Saṅghādisesa thứ tám.
--oo0oo--