Tam tạng thánh điển PGVN 10 » Tạng Tam Tạng Thượng Toạn Bộ 10 »
PHÂN TÍCH GIỚI BỔN
(Suttavibhaṅga)
Tỳ-Khưu INDACANDA
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, Tỳ-khưu-ni Caṇḍakāḷī là vị Ni thường gây nên các sự xung đột, gây nên các sự cãi cọ, gây nên các sự tranh luận, gây nên các cuộc nói chuyện nhảm nhí và gây nên các sự tranh tụng trong hội chúng. Trong lúc hành sự đang được tiến hành cho vị Ni ấy, Tỳ-khưu-ni Thullanandā đã phản đối. Vào lúc bấy giờ, Tỳ-khưu-ni Thullanandā đã đi vào làng vì công việc cần làm nào đó.
Khi ấy, hội chúng Tỳ-khưu-ni [nghĩ rằng]: “Tỳ-khưu-ni Thullanandā đã đi vắng”, nên đã phạt án treo Tỳ-khưu-ni Caṇḍakāḷī trong việc không nhìn nhận tội. Tỳ-khưu-ni Thullanandā, sau khi hoàn tất công việc cần làm ấy ở trong làng, đã quay trở về thành Sāvatthi. Trong khi Tỳ-khưu-ni Thullanandā đi về, Tỳ-khưu-ni Caṇḍakāḷī đã không sắp xếp chỗ ngồi, đã không đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, đã không đi ra tiếp rước y bát và đã không dâng nước uống. Tỳ-khưu-ni Thullanandā đã nói với Tỳ-khưu-ni Caṇḍakāḷī điều này:
– Này cô Ni, vì sao trong khi tôi đi về, cô đã không sắp xếp chỗ ngồi, đã không đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, đã không đi ra tiếp rước y bát và đã không dâng nước uống vậy?
– Thưa Ni sư, bởi vì sự việc này là như vậy, giống như là việc làm đối với kẻ không người bảo hộ.
– Này cô Ni, vì sao cô lại là không người bảo hộ?
– Thưa Ni sư, các Tỳ-khưu-ni này [nói rằng]: “Cô này là không người bảo hộ, lại ngu dốt. Không còn cô kia thì ai sẽ lên tiếng phản đối”, rồi đã phạt án treo tôi trong việc không nhìn nhận tội.
Tỳ-khưu-ni Thullanandā [nói rằng]: “Những cô ấy thì ngu dốt! Những cô ấy không kinh nghiệm! Những cô ấy không biết về hành sự, hoặc sự sai trái của hành sự, hoặc sự hư hỏng của hành sự, hoặc sự thành tựu của hành sự. Chúng ta mới biết về hành sự, hoặc sự sai trái của hành sự, hoặc sự hư hỏng của hành sự, hoặc sự thành tựu của hành sự. Chúng ta có thể thực hiện hành sự chưa được thực hiện, hoặc có thể hủy bỏ hành sự đã được thực hiện”, rồi đã mau mau triệu tập hội chúng Tỳ-khưu-ni và đã phục hồi cho Tỳ-khưu-ni Caṇḍakāḷī.
2. Các Tỳ-khưu-ni nào ít ham muốn, ...(nt)... các vị Ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: “Vì sao Ni sư Thullanandā khi chưa xin phép hội chúng, thực hiện hành sự và không quan tâm đến ước muốn của nhóm, lại phục hồi cho vị Tỳ-khưu-ni đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo sư?” ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, nghe nói Tỳ-khưu-ni Thullanandā khi chưa xin phép hội chúng, thực hiện hành sự và không quan tâm đến ước muốn của nhóm, lại phục hồi cho vị Tỳ-khưu-ni đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo sư, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– ...(nt)... Này các Tỳ-khưu, vì sao Tỳ-khưu-ni Thullanandā khi chưa xin phép hội chúng, thực hiện hành sự và không quan tâm đến ước muốn của nhóm, lại phục hồi cho vị Tỳ-khưu-ni đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo sư vậy? Này các Tỳ-khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(nt)... Và này các Tỳ-khưu, các Tỳ-khưu-ni hãy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị Tỳ-khưu-ni nào khi chưa xin phép hội chúng, thực hiện hành sự và không quan tâm đến ước muốn của nhóm, lại phục hồi cho vị Tỳ-khưu-ni đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo sư, vị Tỳ-khưu-ni này cũng phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, là tội Saṅghādisesa, cần được tách riêng.”
3. Vị ni nào: Là bất cứ vị Ni nào, ...(nt).
Tỳ-khưu-ni: ...(nt)... vị Ni này là “vị Tỳ-khưu-ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Hội chúng hợp nhất nghĩa là có sự đồng cộng trú, được thiết lập trong cùng ranh giới.
Bị phạt án treo nghĩa là bị phạt án treo trong việc không nhìn nhận tội, hoặc trong việc không sửa chữa lỗi, hoặc trong việc không từ bỏ tà kiến ác.
Theo Pháp, theo Luật: Theo Pháp nào đó, theo Luật nào đó.
Theo lời giáo huấn của bậc Đạo sư: Theo lời giáo huấn của đấng Chiến Thắng, theo lời giáo huấn của đức Phật.
Khi chưa xin phép hội chúng, thực hiện hành sự: Khi chưa hỏi ý hội chúng đã làm hành sự.
Không quan tâm đến ước muốn của nhóm: Không biết đến ước muốn của nhóm. [Nghĩ rằng]: “Ta sẽ phục hồi”, rồi tìm kiếm nhóm [Tỳ-khưu-ni] hoặc chỉ định ranh giới thì phạm tội Dukkaṭa. Do lời đề nghị thì phạm tội Dukkaṭa. Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội Thullaccaya. Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự thì phạm tội Saṅghādisesa.
Vị Ni này cũng: Được đề cập có liên quan đến các vị Ni trước đây.
Ngay lúc vừa mới vi phạm: Vị Ni vi phạm do thực hiện sự việc, không phải do sự nhắc nhở.
Cần được tách riêng: Bị tách riêng ra khỏi hội chúng.
Tội Saṅghādisesa: ...(nt)... vì thế được gọi là “tội Saṅghādisesa.”
Hành sự đúng pháp, nhận biết là hành sự đúng pháp, vị Ni phục hồi thì phạm tội Saṅghādisesa. Hành sự đúng pháp, có sự hoài nghi, vị Ni phục hồi thì phạm tội Saṅghādisesa. Hành sự đúng pháp, [lầm] tưởng là hành sự sai pháp, vị Ni phục hồi thì phạm tội Saṅghādisesa. Hành sự sai pháp, [lầm] tưởng là hành sự đúng pháp thì phạm tội Dukkaṭa. Hành sự sai pháp, có sự hoài nghi thì phạm tội Dukkaṭa. Hành sự sai pháp, nhận biết là hành sự sai pháp thì phạm tội Dukkaṭa.
Vị Ni phục hồi sau khi đã xin phép hội chúng thực hiện hành sự, phục hồi sau khi đã quan tâm đến ước muốn của nhóm, phục hồi vị Ni đang thực hành các phận sự, phục hồi khi hội chúng thực hiện hành sự không còn tồn tại, vị Ni bị điên, ...(nt)... vị Ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Điều Saṅghādisesa thứ tư.
--oo0oo--