Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng thánh điển PGVN 10 » Tạng Tam Tạng Thượng Toạn Bộ 10 »

PHÂN TÍCH GIỚI BỔN 
(Suttavibhaṅga)
Tỳ-Khưu INDACANDA

Mục Lục

2.4. CHUYỆN DẪN GIẢI KỆ NGÔN TÓM LƯỢC

 

Do tự tin thái quá, trong rừng, đồ ăn khất thực, thầy tế độ, oai nghi, các sự trói buộc, nơi vắng vẻ, trú xá, các pháp [thượng nhân], được hộ độ.

Không phải là việc khó, tinh tấn, tử thần, sợ hãi, này Đại đức, sự ân hận, chơn chánh, với sự tinh tấn, với sự gắn bó, đưa đến sự thành tựu, rồi có hai câu chuyện về cảm thọ.

Bà-la-môn năm chuyện, ba chuyện vị đề cập trí giải thoát, ngụ nhà, các dục đã ngăn chặn, thỏa thích và ra đi.

Bộ xương và miếng thịt, hai chuyện kẻ giết bò, cục thịt kẻ bẫy chim, không da người hàng thịt, cây gươm kẻ mổ heo, cây lao thợ săn nai, mũi tên người xử án, cây kim kẻ dạy thú.

Người đâm thọc bị khâu, mang tinh hoàn quan tòa, chìm hố kẻ ngoại tình, Bà-la-môn quỷ quyệt là kẻ bị ăn phân.

Không da gái lăng loàn, gớm ghiếc bà bói toán, thị héo hon tàn tạ, đổ than hồng tình địch, đầu cụt kẻ trảm tù.

Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, Ni tập sự, Sa-di, rồi vị Sa-di-ni, đã xuất gia trong Luật của Phật Kassapa chúng đã làm ác nghiệp.

Dòng sông Tapodā, thành Rājagaha, chiến trận [Licchavi], và chuyện rồng lặn hụp, Tỳ-khưu Sobhita là vị A-la-hán nhớ được năm trăm kiếp.

*****

1. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, do sự tự tin thái quá đã nói về trí giải thoát. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Điều học đã được đức Thế Tôn quy định; phải chăng ta đã phạm tội Pārājika?” Sau đó, vị Tỳ-khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, do sự tự tin thái quá thì vô tội. (1)

2. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ cư ngụ ở trong rừng sau khi đã mong mỏi rằng: “Như vầy thì dân chúng sẽ kính trọng ta!” Dân chúng đã kính trọng vị ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika. Và này các Tỳ-khưu, không nên cư ngụ ở trong rừng sau khi đã mong mỏi; vị nào cư ngụ thì phạm tội Dukkaṭa. (2)

3. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ đi khất thực sau khi đã mong mỏi rằng: “Như vầy thì dân chúng sẽ kính trọng ta!” Dân chúng đã kính trọng vị ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika. Và này các Tỳ-khưu, không nên đi khất thực sau khi đã mong mỏi; vị nào đi thì phạm tội Dukkaṭa. (3)

4. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ đã nói với vị Tỳ-khưu khác điều này:

– Này Đại đức, tất cả các đệ tử của thầy tế độ của chúng ta đều là các vị A-la-hán.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, [khi ấy] ngươi có tâm gì?

– Bạch Thế Tôn, con có ý định khoác lác.

– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya.[1] (4)

5. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ đã nói với vị Tỳ-khưu khác điều này:

– Này Đại đức, tất cả các học trò của thầy tế độ của chúng ta đều có đại thần lực, có đại oai lực.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, [khi ấy] ngươi có tâm gì?

– Bạch Thế Tôn, con có ý định khoác lác.

– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (5)

6. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ đi kinh hành sau khi đã mong mỏi rằng: ...(nt)... đứng yên sau khi đã mong mỏi rằng: ...(nt)... ngồi xuống sau khi đã mong mỏi rằng: ...(nt)... nằm xuống sau khi đã mong mỏi rằng: “Như vầy thì dân chúng sẽ kính trọng ta!” Dân chúng đã kính trọng vị ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika. Và này các Tỳ-khưu, không nên nằm xuống sau khi đã mong mỏi; vị nào nằm xuống thì phạm tội Dukkaṭa. (6-9)

7. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ khoác lác về pháp thượng nhân đến vị Tỳ-khưu khác. Vị ấy cũng đã nói như vầy:

– Này Đại đức, những sự trói buộc của tôi cũng đã được dứt bỏ.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (10)

8. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ đi đến nơi vắng vẻ rồi khoác lác về pháp thượng nhân. Có vị Tỳ-khưu biết được tâm người khác đã phản bác vị Tỳ-khưu ấy rằng: “

– Này Đại đức, chớ có nói như thế. Điều ấy Đại đức không có.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Dukkaṭa. (11)

9. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ đi đến nơi vắng vẻ rồi khoác lác về pháp thượng nhân. Có vị thiên nhân đã phản bác vị Tỳ-khưu ấy rằng:

– Thưa ngài, chớ có nói như thế. Điều ấy ngài không có.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Dukkaṭa. (12)

10. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ đã nói với nam cư sĩ nọ điều này:

– Này đạo hữu, vị Tỳ-khưu sống trong trú xá của đạo hữu là vị A-la-hán.

Và vị Tỳ-khưu ấy sống trong trú xá của người ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, [khi ấy] ngươi có tâm gì?

– Bạch Thế Tôn, con có ý định khoác lác.

– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (13)              

11. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ đã nói với nam cư sĩ nọ điều này:

– Này đạo hữu, vị Tỳ-khưu mà ngươi hộ độ bằng vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ và thuốc men trị bệnh là vị A-la-hán.

Và người ấy đang hộ độ vị Tỳ-khưu ấy bằng vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ và thuốc men trị bệnh. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(nt). 

– Này Tỳ-khưu, [khi ấy] ngươi có tâm gì?

– Bạch Thế Tôn, con có ý định khoác lác.

– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (14)

12. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị bệnh. Các Tỳ-khưu đã nói với vị ấy điều này:

– Đại đức có pháp thượng nhân không?

– Này các Đại đức, không phải là việc khó để nói lên trí giải thoát.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Chỉ có những vị Thinh văn của đức Thế Tôn mới có thể nói như thế. Và ta không phải là Thinh văn của đức Thế Tôn; phải chăng ta đã phạm tội Pārājika?” Rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, [khi ấy] ngươi có tâm gì?

– Bạch Thế Tôn, con không có ý định khoác lác.

– Này Tỳ-khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội. (15)

13. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị bệnh. Các Tỳ-khưu đã nói với vị ấy điều này:

– Đại đức có pháp thượng nhân không?

– Này các Đại đức, pháp sẽ được thành tựu với vị có sự tinh tấn đã được ra sức.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội. (16)

14. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị bệnh. Các Tỳ-khưu đã nói với vị ấy điều này:

– Này Đại đức, chớ có sợ hãi!

– Này các Đại đức, tôi không sợ hãi thần chết.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội. (17)

15. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị bệnh. Các Tỳ-khưu đã nói với vị ấy điều này:

– Này Đại đức, chớ có sợ hãi!

– Này các Đại đức, có lẽ vị nào có sự ân hận thì vị ấy mới sợ hãi.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội. (18)

16. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị bệnh. Các Tỳ-khưu đã nói với vị ấy điều này:

– Đại đức có pháp thượng nhân không?

– Này các Đại đức, pháp sẽ được thành tựu với vị có sự hành trì chơn chánh.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội. (19)

17. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị bệnh. Các Tỳ-khưu đã nói với vị ấy điều này:

– Đại đức có pháp thượng nhân không?

– Này các Đại đức, pháp sẽ được thành tựu với vị có sự tinh tấn đã được ra sức.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(nt).

 – Này Tỳ-khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.[2] (20)          

18. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị bệnh. Các Tỳ-khưu đã nói với vị ấy điều này:

– Đại đức có pháp thượng nhân không?

– Này các Đại đức, pháp sẽ được thành tựu với vị có sự kiên trì gắn bó.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội. (21)

19. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị bệnh. Các Tỳ-khưu đã nói với vị ấy điều này:

– Này Đại đức, sức khỏe có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không?

– Này các Đại đức, người nào khác thì không thể chịu đựng nổi.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội. (22)

20. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị bệnh. Các Tỳ-khưu đã nói với vị ấy điều này:

– Này Đại đức, sức khỏe có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không?

– Này các Đại đức, phàm nhân thì không thể chịu đựng nổi.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, [khi ấy] ngươi có tâm gì?

– Bạch Thế Tôn, con có ý định khoác lác.

– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (23)

21. Vào lúc bấy giờ, có người Bà-la-môn nọ đã thỉnh mời các Tỳ-khưu và đã nói điều này:

– Thưa các ngài, xin các vị A-la-hán hãy ngự đến.

Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Chúng ta không phải là các vị A-la-hán và người Bà-la-môn này gọi chúng ta bằng từ A-la-hán. Vậy chúng ta nên xử trí như thế nào đây?” Rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, vô tội trong việc xưng hô theo đức tin. (24)

22. Vào lúc bấy giờ, có người Bà-la-môn nọ đã thỉnh mời các Tỳ-khưu và đã nói điều này:

– Thưa các ngài, xin các vị A-la-hán hãy ngồi xuống. ...(nt).

– Thưa các ngài, xin các vị A-la-hán hãy thọ thực. ...(nt).

– Thưa các ngài, xin các vị A-la-hán hãy được hài lòng. ...(nt).

– Thưa các ngài, xin các vị A-la-hán hãy ra đi.

Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Chúng ta không phải là các vị A-la-hán và người Bà-la-môn này lại đối xử với chúng ta bằng danh xưng A-la-hán. Vậy chúng ta nên xử trí như thế nào đây?” Rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(nt). 

– Này các Tỳ-khưu, vô tội trong việc xưng hô theo đức tin. (25-28)

23. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ khoác lác với vị Tỳ-khưu khác về pháp thượng nhân. Vị ấy cũng đã nói như vầy:

– Này Đại đức, tôi cũng đã đoạn tận các lậu hoặc.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (29)

24. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ khoác lác với vị Tỳ-khưu khác về pháp thượng nhân. Vị ấy cũng đã nói như vầy:

– Này Đại đức, các pháp này cũng được tìm thấy ở tôi.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (30)

25. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ khoác lác với vị Tỳ-khưu khác về pháp thượng nhân. Vị ấy cũng đã nói như vầy:

– Này Đại đức, tôi cũng thành thục các pháp này.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (31)

26. Vào lúc bấy giờ, các thân quyến đã nói với vị Tỳ-khưu nọ điều này:

– Thưa ngài, hãy đến và ngụ ở gia đình.

– Này các đạo hữu, người như tôi không thể ngụ ở gia đình.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội. (32)

27. Vào lúc bấy giờ, các thân quyến đã nói với vị Tỳ-khưu nọ điều này:

– Thưa ngài, hãy đến và thọ dụng các dục.

– Này các đạo hữu, các dục của tôi đã được ngăn chặn.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội. (33)

28. Vào lúc bấy giờ, các thân quyến đã nói với vị Tỳ-khưu nọ điều này:

– Thưa ngài, xin hãy thỏa thích.

– Này các đạo hữu, tôi được thỏa thích với sự thỏa thích tối thượng.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Chỉ có những vị Thinh văn của đức Thế Tôn mới có thể nói như thế. Và ta không phải là Thinh văn của đức Thế Tôn; phải chăng ta đã phạm tội Pārājika?” Rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

– Này Tỳ-khưu, [khi ấy] ngươi có tâm gì?

– Bạch Thế Tôn, con không có ý định khoác lác.

– Này Tỳ-khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội. (34)

29. Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị Tỳ-khưu đã vào mùa [an cư] mưa ở trú xứ nọ sau khi thỏa thuận rằng: “Vị nào sẽ rời trú xứ này trước tiên, chúng ta sẽ biết vị ấy là vị A-la-hán.” Có vị Tỳ-khưu nọ [nghĩ rằng]: “Hãy để cho các vị biết ta là vị A-la-hán”, rồi đã rời trú xứ ấy trước tiên. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (35)

30. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, Đại đức Lakkhaṇa và Đại đức Mahāmoggallāna cư ngụ tại Gijjhakūṭa. Khi ấy, vào buổi sáng, Đại đức Mahāmoggallāna đã mặc y, cầm y bát đi đến gặp Đại đức Lakkhaṇa, sau khi đến đã nói với Đại đức Lakkhaṇa điều này:

– Này Đại đức Lakkhaṇa, chúng ta hãy đi vào thành Rājagaha để khất thực.

– Này Đại đức, xin vâng.

Đại đức Lakkhaṇa đã trả lời Đại đức Mahāmoggallāna.

31. Sau đó, trong khi đi xuống từ Gijjhakūṭa, tại khu vực nọ, Đại đức Mahāmoggallāna đã mỉm cười. Khi ấy, Đại đức Lakkhaṇa đã nói với Đại đức Mahāmoggallāna điều này:

– Này Đại đức Mahāmoggallāna, nhân gì, duyên gì đưa đến việc mỉm cười vậy?

– Này Đại đức Lakkhaṇa, không phải là thời điểm của câu hỏi này, hãy hỏi ta câu hỏi này trong sự hiện diện của đức Thế Tôn.

32. Sau đó, Đại đức Lakkhaṇa và Đại đức Mahāmoggallāna đã đi khất thực trong thành Rājagaha, sau bữa ăn, khi đi khất thực trở về đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Đại đức Lakkhaṇa đã nói với Đại đức Mahāmoggallāna điều này:

– Ở đây, Đại đức Mahāmoggallāna, trong khi đang đi xuống từ Gijjhakūṭa, tại khu vực nọ đã mỉm cười. Này Đại đức Mahāmoggallāna, nhân gì, duyên gì đưa đến việc mỉm cười vậy?

– Này Đại đức, trong khi đang đi xuống từ Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy bộ xương đang đi trong hư không. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng[3] lăn xả lao vào bộ xương ấy, rứt ra các phần ở khoảng giữa các xương sườn; bộ xương ấy đã rên rỉ khổ sở. Này Đại đức, ta đây đã khởi ý điều này: “Thật là kỳ diệu! Thật là phi thường! Cũng có chúng sanh lại trở thành như thế này! Cũng có dạ-xoa lại trở thành như thế này! Cũng có ngạ quỷ lại trở thành như thế này! Cũng có sự hình thành bản ngã lại là như thế này!”

Các Tỳ-khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: “Đại đức Mahāmoggallāna khoác lác về pháp thượng nhân.”

33. Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các vị Tỳ-khưu rằng:

– Này các Tỳ-khưu, quả thật các Thinh văn sống với mắt thấy như thật! Này các Tỳ-khưu, quả thật các Thinh văn sống với trí biết như thật! Bởi vì là Thinh văn thì sẽ biết, hoặc sẽ thấy, hoặc sẽ chứng kiến điều như thế. Này các Tỳ-khưu, trước đây Ta đã thấy chúng sanh ấy, tuy nhiên Ta đã không nói ra. Và nếu Ta nói ra điều ấy thì những kẻ khác có thể không tin Ta, những ai không tin Ta thì việc ấy sẽ đem lại cho chúng sự bất hạnh, khổ đau lâu dài. Này các Tỳ-khưu, chúng sanh ấy đã là kẻ giết trâu bò ở ngay trong thành Rājagaha này. Kẻ ấy do quả của nghiệp ấy, sau khi đã bị nung nấu trong địa ngục nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm, và do quả dư sót của chính nghiệp ấy đã gánh chịu sự hình thành bản ngã có hình thức như thế. Này các Tỳ-khưu, Moggallāna đã nói sự thật. Này các Tỳ-khưu, Moggallāna không phạm tội. (36)

34. – Này Đại đức, trong khi đang đi xuống từ Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy miếng thịt đang đi trong hư không. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào miếng thịt ấy, day nghiến, rứt ra; miếng thịt ấy đã rên rỉ khổ sở. ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, chúng sanh ấy đã là kẻ giết trâu bò ở ngay trong thành Rājagaha này. (37)

35. – Này Đại đức, trong khi đang đi xuống từ Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy cục thịt đang đi trong hư không. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào cục thịt ấy, day nghiến, rứt ra; cục thịt ấy đã rên rỉ khổ sở. ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, chúng sanh ấy đã là kẻ bẫy chim ở ngay trong thành Rājagaha này. (38)

36. – Này Đại đức, trong khi đang đi xuống từ Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người đàn ông không có lớp da [bao bọc][4] đang đi trong hư không. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào người ấy, day nghiến, rứt ra; người ấy đã rên rỉ khổ sở.” ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, chúng sanh ấy đã là người hàng thịt ở ngay trong thành Rājagaha này. (39)

 

37. – Này Đại đức, trong khi đang đi xuống từ Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người có lông là các cây gươm đang đi trong hư không. Những cây gươm ấy lăn xả lao vào người ấy, rơi xuống trên cơ thể của chính người ấy; người ấy đã rên rỉ khổ sở. ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, chúng sanh ấy đã là người mổ heo ở ngay trong thành Rājagaha này. (40)

38. – Này Đại đức, trong khi đang đi xuống từ Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người có lông là các cây lao đang đi trong hư không. Những cây lao ấy lăn xả lao vào người ấy, rơi xuống trên cơ thể của chính người ấy; người ấy đã rên rỉ khổ sở. ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, chúng sanh ấy đã là người thợ săn nai ở ngay trong thành Rājagaha này. (41)

39. – Này Đại đức, trong khi đang đi xuống từ Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người có lông là các mũi tên đang đi trong hư không. Những mũi tên ấy lăn xả lao vào người ấy, rơi xuống trên cơ thể của chính người ấy; người ấy đã rên rỉ khổ sở. ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, chúng sanh ấy đã là người tra khảo ở ngay trong thành Rājagaha này. (42)

40. – Này Đại đức, trong khi đang đi xuống từ Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người có lông là các cây kim đang đi trong hư không. Những cây kim ấy lăn xả lao vào người ấy, rơi xuống trên cơ thể của chính người ấy; người ấy đã rên rỉ khổ sở. ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, chúng sanh ấy đã là người đánh xe ở ngay trong thành Rājagaha này. (43)

41. – Này Đại đức, trong khi đang đi xuống từ Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người có lông là các cây kim đang đi trong hư không. Những cây kim ấy đã đi vào đầu của người ấy rồi đi ra từ miệng, đã đi vào miệng rồi đi ra từ ngực, đã đi vào ngực rồi đi ra từ bụng, đã đi vào bụng rồi đi ra từ hai đùi, đã đi vào hai đùi rồi đi ra từ hai cẳng chân, đã đi vào hai cẳng chân rồi đi ra từ hai bàn chân; người ấy đã rên rỉ khổ sở. ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, chúng sanh ấy đã là kẻ nói lời đâm thọc ở ngay trong thành Rājagaha này. (44)               

42. – Này Đại đức, trong khi đang đi xuống từ Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người hình thù quỷ sứ đang đi trong hư không. Trong lúc đi, người ấy đặt hai tinh hoàn ở trên vai rồi đi. Trong khi ngồi xuống, người ấy ngồi xuống trên chính hai tinh hoàn ấy. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào người ấy, day nghiến, rứt ra; người ấy đã rên rỉ khổ sở. ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, chúng sanh ấy đã là quan xử án[5] ở ngay trong thành Rājagaha này. (45)

43. – Này Đại đức, trong khi đang đi xuống từ Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người bị chìm đến tận đầu ở trong hố phân ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, chúng sanh ấy đã là kẻ phạm tội ngoại tình ở ngay trong thành Rājagaha này. (46)

44. – Này Đại đức, trong khi đang đi xuống từ Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người bị chìm đến tận đầu ở trong hố phân, đang ăn phân bằng hai bàn tay ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, chúng sanh ấy đã là kẻ Bà-la-môn quỷ quyệt ở ngay trong thành Rājagaha này. Trong thời giáo pháp của đức Chánh Đẳng Giác Kassapa, kẻ ấy đã thỉnh mời hội chúng Tỳ-khưu bữa ăn. Sau khi cho người đổ đầy các máng phân và thông báo thời giờ, kẻ ấy đã nói điều này: “Này các ngài, hãy ăn rồi hãy mang đi theo ý thích.” (47)

45. – Này Đại đức, trong khi đang đi xuống từ Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người đàn bà không có lớp da [bao bọc] đang đi trong hư không. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào cô ấy, day nghiến, rứt ra; cô ấy đã rên rỉ khổ sở. ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, người đàn bà ấy đã là gái lăng loàn ở ngay trong thành Rājagaha này. (48)

46. – Này Đại đức, trong khi đang đi xuống từ Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người đàn bà hôi thối, gớm ghiếc đang đi trong hư không. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào cô ấy, day nghiến, rứt ra; cô ấy đã rên rỉ khổ sở. ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, người đàn bà ấy đã là bà bói toán ở ngay trong thành Rājagaha này. (49)

47. – Này Đại đức, trong khi đang đi xuống từ Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người đàn bà bị thiêu đốt, héo hon, tàn tạ; cô ấy đã rên rỉ khổ sở. ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, người đàn bà ấy đã là đệ nhất hoàng hậu của đức Vua Kāliṅga. Bà ta lộ vẻ ghen tương, đã dùng chậu than cháy đỏ trút lên người tình địch. (50)

48. – Này Đại đức, trong khi đang đi xuống từ Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy thi thể không đầu đang đi trong hư không, còn các con mắt và miệng thì ở trên ngực của người ấy. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào người ấy, day nghiến, rứt ra; người ấy đã rên rỉ khổ sở. ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, chúng sanh ấy đã là người xử tử bọn trộm cướp tên Hārika ở ngay trong thành Rājagaha này. (51)

49. – Này Đại đức, trong khi đang đi xuống từ Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy vị Tỳ-khưu đang đi trong hư không, y hai lớp của vị ấy bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, bình bát cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, dây thắt lưng cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, thân hình cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa; vị ấy đã rên rỉ khổ sở. ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, vị Tỳ-khưu ấy đã là vị ác Tỳ-khưu ở vào thời giáo pháp của đức Chánh Đẳng Giác Kassapa. (52)

50. – Này Đại đức, trong khi đang đi xuống từ Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy vị Tỳ-khưu-ni ...(nt)... đã nhìn thấy vị Ni tu tập sự ...(nt)... đã nhìn thấy vị Sa-di ...(nt)... đã nhìn thấy vị Sa-di-ni đang đi trong hư không, y hai lớp[6] của vị Ni ấy bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, bình bát cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, dây thắt lưng cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, thân hình cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa; vị Ni ấy đã rên rỉ khổ sở. Này Đại đức, ta đây đã khởi ý điều này: “Thật là kỳ diệu! Thật là phi thường! Cũng có chúng sanh lại trở thành như thế này! Cũng có dạ-xoa lại trở thành như thế này! Cũng có ngạ quỷ lại trở thành như thế này! Cũng có sự hình thành bản ngã lại là như thế này!”

Các Tỳ-khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: “Đại đức Mahāmoggallāna khoác lác về pháp thượng nhân.”

Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các vị Tỳ-khưu rằng:

– Này các Tỳ-khưu, quả thật các Thinh Văn sống với mắt thấy như thật! Này các Tỳ-khưu, quả thật các Thinh Văn sống với trí biết như thật! Bởi vì là Thinh Văn thì sẽ biết, hoặc sẽ thấy, hoặc sẽ chứng kiến điều như thế. Này các Tỳ-khưu, trước đây Ta đã thấy vị Sa-di-ni ấy, tuy nhiên Ta đã không nói ra. Và nếu Ta nói ra thì những kẻ khác có thể không tin Ta, những ai không tin Ta thì việc ấy sẽ đem lại cho chúng sự bất hạnh, khổ đau lâu dài. Này các Tỳ-khưu, vị Sa-di-ni ấy đã là ác Sa-di-ni ở vào thời giáo pháp của đức Chánh Đẳng Giác Kassapa. Vị Ni ấy, do quả của nghiệp ấy, đã bị nung nấu trong địa ngục nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm, và do quả dư sót của chính nghiệp ấy đã gánh chịu sự hình thành bản ngã có hình thức như thế. Này các Tỳ-khưu, Moggallāna đã nói sự thật. Này các Tỳ-khưu, Moggallāna không phạm tội. (53-56)

51. Khi ấy, Đại đức Mahāmoggallāna đã nói với các Tỳ-khưu rằng:

– Này các Đại đức, dòng sông Tapodā chảy ra từ cái hồ có nước trong, có nước mát, có nước ngọt, có nước thanh khiết, có chỗ nghỉ chân xinh đẹp, đáng thưởng ngoạn, có nhiều cá và rùa, có những đóa hoa sen tròn nở rộ.

Các Tỳ-khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: “Vì sao Đại đức Mahāmoggallāna lại phát biểu như vầy: ‘Này các Đại đức, dòng sông Tapodā chảy ra từ cái hồ có nước trong, có nước mát, có nước ngọt, có nước thanh khiết, có chỗ nghỉ chân xinh đẹp, đáng thưởng ngoạn, có nhiều cá và rùa, có những đóa hoa sen tròn nở rộ?’ Vả lại, dòng sông Tapodā này là nóng bỏng và trôi chảy. Đại đức Mahāmoggallāna khoác lác về pháp thượng nhân.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

– Này các Tỳ-khưu, dòng sông Tapodā chảy ra từ cái hồ có nước trong, có nước mát, có nước ngọt, có nước thanh khiết, có chỗ nghỉ chân xinh đẹp, đáng thưởng ngoạn, có nhiều cá và rùa, có những đóa hoa sen tròn nở rộ. Này các Tỳ-khưu, tuy nhiên dòng sông Tapodā này đi qua giữa hai đại địa ngục, vì thế dòng sông Tapodā này trở nên nóng bỏng và trôi chảy. Này các Tỳ-khưu, Moggallāna đã nói sự thật. Này các Tỳ-khưu, Moggallāna không phạm tội. (57)

52. Vào lúc bấy giờ, đức Vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, trong lúc giao chiến với các vị Licchavi, đã bị đánh tan tác. Sau đó, khi đã gom góp lại đội binh hậu bị, đức vua đã đánh bại các vị Licchavi. Và trong trận chiến có sự vui mừng loan truyền rằng: “Các vị Licchavi đã bị đức vua đánh tan tác.” Khi ấy, Đại đức Mahāmoggallāna đã nói với các Tỳ-khưu rằng:

– Này các Đại đức, đức vua đã bị các vị Licchavi đánh tan tác. Và trong trận chiến có sự vui mừng loan truyền rằng: “Các vị Licchavi đã bị đức vua đánh tan tác.”

Các Tỳ-khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: “Vì sao Đại đức Mahāmoggallāna lại phát biểu như vầy: ‘Này các Đại đức, đức vua đã bị các vị Licchavi đánh tan tác. Và trong trận chiến có sự vui mừng loan truyền rằng: Các vị Licchavi đã bị đức vua đánh tan tác?’ Đại đức Mahāmoggallāna khoác lác về pháp thượng nhân.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

– Này các Tỳ-khưu, trước tiên đức vua đã bị các vị Licchavi đánh tan tác. Sau đó, khi đã gom góp lại đội binh hậu bị, đức vua đã đánh bại các vị Licchavi. Này các Tỳ-khưu, Moggallāna đã nói sự thật. Này các Tỳ-khưu, Moggallāna không phạm tội. (58)

54.[7] Sau đó, Đại đức Mahāmoggallāna đã nói với các Tỳ-khưu rằng:

– Này các Đại đức, được thể nhập định bất thối, tôi đây ở nơi bờ sông Sappinikā đã nghe tiếng động của các con rồng đang hụp xuống rồi trồi lên và gầm lên tiếng rống.

Các Tỳ-khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: “Làm sao Đại đức Mahāmoggallāna được thể nhập định bất thối lại có thể nghe tiếng động? Đại đức Mahāmoggallāna khoác lác về pháp thượng nhân.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

– Này các Tỳ-khưu, có loại định này và vị ấy chưa được thuần thục lắm. Này các Tỳ-khưu, Moggallāna đã nói sự thật. Này các Tỳ-khưu, Moggallāna không phạm tội. (59)

55. Khi ấy, Đại đức Sobhita đã nói với các Tỳ-khưu rằng:

– Này các Đại đức, tôi nhớ được năm trăm kiếp.

Các Tỳ-khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: “Vì sao Đại đức Sobhita lại nói như vầy: ‘Này các Đại đức, tôi nhớ được năm trăm kiếp?’ Đại đức Sobhita khoác lác về pháp thượng nhân.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

– Này các Tỳ-khưu, Sobhita đã sống kiếp sống ấy và kiếp sống ấy chính là một kiếp sống của Sobhita. Này các Tỳ-khưu, Sobhita đã nói sự thật. Này các Tỳ-khưu, Sobhita không phạm tội. (60)

Điều Pārājika thứ tư được đầy đủ.

--oo0oo--

Bạch chư Đại đức, bốn điều Pārājika đã được đọc tụng xong. Vị Tỳ-khưu vi phạm điều nọ hoặc điều kia thuộc về các điều này thì không đạt được sự cộng trú cùng với các vị Tỳ-khưu,[8] trước đây như thế nào thì sau này là như vậy;[9] [vị ấy] là vị phạm tội Pārājika, không được cộng trú.

Trong các điều ấy, tôi hỏi các Đại đức rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Các Đại đức ở đây được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

Dứt điều học Pārājika.

--oo0oo--

TÓM LƯỢC CHƯƠNG NÀY

Bốn điều Pārājika là: Việc đôi lứa, vật không được cho, mạng người, pháp thượng nhân. Sự việc nên được phân tích, không còn sự nghi vấn.

Dứt chương Pārājika.

--oo0oo--

 

Chú thích

[1] Vị ấy vì chưa đề cập rõ ràng bản thân là A-la-hán (Ahanti avuttatā) nên không phạm tội Pārājika (VinA. II. 503).

[2] Câu chuyện này được lặp lại y như câu chuyện (16) ở trên.

[3] Ngài Buddhaghosa giải thích: Các chim kên kên, chim quạ, chim ưng này là các dạ-xoa có dạng chim, “yakkhagijjhā yakkhakākā yakkhakulalā” (VinA. II. 507).

[4] Ngài Buddhaghosa giải thích về người không có lớp da bao bọc là do việc người này đã giết các con dê, rồi lột da nên bị quả báo không có lớp da bao bọc (VinA. II. 509).

[5] Người này tuy là quan xử án nhưng nhận hối lộ ở nơi kín đáo, rồi xử án thiên lệch nên bị trả quả phải phơi bày vật kín ra (VinA. II. 510).

[6] Có thể đây là một lầm lẫn trong lúc gom các đoạn văn trùng lặp lại với nhau, vì các vị Ni tu tập sự, Sa-di, Sa-di-ni không có y hai lớp (saṅghāṭi). Chỉ Tỳ-khưu và Tỳ-khưu-ni mới có y này.

[7] Do đánh số nhầm từ bản gốc Pāli, nên dịch giả giữ nguyên số lại như vậy để dễ đối chiếu (BBT).

[8] Không đạt được sự cộng trú cùng với các vị Tỳ-khưu, nghĩa là vị ấy không còn được tham dự các lễ Uposatha (lễ Bố-tát), lễ Pavāraṇā (lễ Tự tứ), việc đọc tụng Giới bổn (Pātimokkha) và các loại hành sự của hội chúng  (VinA. II. 516).

[9] Trước đây như thế nào thì sau này là như vậy (yathā pure tathā pacchā), nghĩa là trước đây còn tại gia, chưa tu lên bậc trên, sự cách biệt đối với các vị Tỳ-khưu như thế nào, bây giờ, sau khi phạm tội Pārājika thì phải theo đúng như thế ấy (VinA. II. 516).