Tam tạng thánh điển PGVN 10 » Tạng Tam Tạng Thượng Toạn Bộ 10 »
PHÂN TÍCH GIỚI BỔN
(Suttavibhaṅga)
Tỳ-Khưu INDACANDA
Việc ca ngợi, vị đang ngồi xuống, cái chày và cối giã, chuyện các vị già xuất gia, mắc nghẹn thịt, thuốc độc.
Ba chuyện làm nền đất, ba chuyện khác về gạch, lưỡi rìu và luôn cả khung gỗ, giàn giáo, leo xuống, vị bị té.
Hơ nóng, mũi, xoa bóp, việc tắm, thoa dầu, trong khi nâng dậy và xô ngã, chết bởi vì cơm, nước.
Có thai với nhân tình, người có hai vợ, giết chết hai mẹ con, cả hai không bị chết, chà xát, đốt nóng, không sanh, còn sanh sản.
Thọt léc, sự trả thù, dạ-xoa, quỷ dữ tợn, vị phái người đi, tưởng vị ấy rồi giết, giảng về cõi trời và địa ngục.
Ba chuyện về cây cối ở Āḷavi, ba chuyện khác về lửa, chớ làm cho khổ sở, không theo cách của ngài, [cho uống] sữa còn bơ và giấm mặn.
1. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị bệnh. Các Tỳ-khưu vì lòng trắc ẩn đã ca ngợi lợi ích của sự chết đến vị ấy. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Phải chăng chúng ta đã phạm tội Pārājika?” Sau đó, các vị Tỳ-khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, các ngươi đã phạm tội Pārājika. (1)
2. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ đi khất thực, trong lúc ngồi xuống đã đè lên đứa bé trai được phủ bởi tấm màn ở trên chiếc ghế và gây ra tử vong. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, ngươi không phạm tội Pārājika. Và này các Tỳ-khưu, khi chưa xem xét, không nên ngồi xuống ở chỗ ngồi; vị nào ngồi xuống thì phạm tội Dukkaṭa. (2)
3. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, trong lúc sắp đặt chỗ ngồi ở nhà ăn nơi xóm nhà, khi cái chày được đưa lên thì đã cầm lấy một cái chày. Cái chày thứ hai đã rơi xuống và chạm mạnh vào đỉnh đầu của đứa bé trai nọ. Đứa bé đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, [khi ấy] ngươi có tâm gì?
– Bạch Thế Tôn, con không cố ý.
– Này Tỳ-khưu, không cố ý thì vô tội. (3)
4. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, trong khi sắp đặt chỗ ngồi ở nhà ăn nơi xóm nhà đã bước lên vật dụng là cối giã khiến [chúng] quay tròn, rồi chạm mạnh vào đứa bé trai nọ và gây ra tử vong. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, không cố ý thì vô tội. (4)
5. Vào lúc bấy giờ, có hai cha con cùng xuất gia ở nơi các Tỳ-khưu. Khi thời giờ được thông báo, đứa con trai đã nói với người cha điều này: “Thưa cha, hãy đi. Hội chúng chờ đợi cha”, rồi đã nắm lấy ở lưng và đẩy tới. Người cha đã té xuống và chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, [khi ấy] ngươi có tâm gì?
– Bạch Thế Tôn, con không có ý muốn gây tử vong.
– Này Tỳ-khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội. (5)
6. Vào lúc bấy giờ, có hai cha con cùng xuất gia ở nơi các Tỳ-khưu. Khi thời giờ được thông báo, đứa con trai đã nói với người cha điều này: “Thưa cha, hãy đi. Hội chúng chờ đợi cha”, rồi đã nắm lấy ở lưng và đẩy tới có ý muốn gây tử vong. Người cha đã té xuống và chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (6)
7. Vào lúc bấy giờ, có hai cha con cùng xuất gia ở nơi các Tỳ-khưu. Khi thời giờ được thông báo, đứa con trai đã nói với người cha điều này: “Thưa cha, hãy đi. Hội chúng chờ đợi cha”, rồi đã nắm lấy ở lưng và đẩy tới có ý muốn gây tử vong. Người cha đã té xuống và không bị chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya.(7)
8. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, trong lúc đang ăn đã bị mắc nghẹn miếng thịt ở cổ họng. Có vị Tỳ-khưu khác đã vỗ vào cổ của vị Tỳ-khưu ấy. Cục thịt đã rơi ra có dính máu. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội. (8)
9. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, trong lúc đang ăn đã bị mắc nghẹn miếng thịt ở cổ họng. Có vị Tỳ-khưu khác có ý muốn gây tử vong đã vỗ vào cổ của vị Tỳ-khưu ấy. Cục thịt đã rơi ra có dính máu. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (9)
10. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, trong lúc đang ăn đã bị mắc nghẹn miếng thịt ở cổ họng. Có vị Tỳ-khưu khác có ý muốn gây tử vong đã vỗ vào cổ của vị Tỳ-khưu ấy. Cục thịt đã rơi ra có dính máu. Vị Tỳ-khưu ấy đã không bị chết. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (10)
11. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ đi khất thực, sau khi nhận được vật thực có thuốc độc đã mang trở về và dâng các Tỳ-khưu nếm thử trước. Các Tỳ-khưu ấy đã chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, [khi ấy] ngươi có tâm gì?
– Bạch Thế Tôn, con không biết [có độc].
– Này Tỳ-khưu, vị không biết thì vô tội. (11)
12. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ có ý muốn thử nghiệm đã trao thuốc độc cho vị Tỳ-khưu khác. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, [khi ấy] ngươi có tâm gì?
– Bạch Thế Tôn, con có ý muốn thử nghiệm.
– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (12)
13. Vào lúc bấy giờ, các Tỳ-khưu ở thành Āḷavi thực hiện nền đất của trú xá. Có vị Tỳ-khưu nọ ở bên dưới đã đưa đá lên. Viên đá được vị Tỳ-khưu ở phía trên nắm lấy vụng về đã chạm mạnh vào đỉnh đầu của vị Tỳ-khưu ở bên dưới. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, không cố ý thì vô tội. (13)
14. Vào lúc bấy giờ, các Tỳ-khưu ở thành Āḷavi thực hiện nền đất của trú xá. Có vị Tỳ-khưu nọ ở bên dưới đã đưa đá lên. Vị Tỳ-khưu ở phía trên có ý muốn gây tử vong nên đã thả viên đá ở đỉnh đầu của vị Tỳ-khưu ở bên dưới. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (14)
15. Vào lúc bấy giờ, ...(nt)... Vị Tỳ-khưu ấy đã không bị chết. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (15)
16. Vào lúc bấy giờ, các Tỳ-khưu ở thành Āḷavi xây dựng bức tường của trú xá. Có vị Tỳ-khưu nọ ở bên dưới đã đưa gạch lên. Viên gạch được vị Tỳ-khưu ở phía trên nắm lấy vụng về đã chạm mạnh vào đỉnh đầu của vị Tỳ-khưu ở bên dưới. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, không cố ý thì vô tội. (16)
17. Vào lúc bấy giờ, các Tỳ-khưu ở thành Āḷavi xây dựng bức tường của trú xá. Có vị Tỳ-khưu nọ ở bên dưới đã đưa gạch lên. Vị Tỳ-khưu ở phía trên có ý muốn gây tử vong nên đã thả viên gạch ở đỉnh đầu của vị Tỳ-khưu ở bên dưới. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. ...(nt)... [đã phạm tội Pārājika. Vào lúc bấy giờ, ...(nt)...] Vị Tỳ-khưu ấy đã không bị chết. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (17-18)
18. Vào lúc bấy giờ, các Tỳ-khưu ở thành Āḷavi xây dựng công trình mới. Có vị Tỳ-khưu nọ ở bên dưới đã đưa lưỡi rìu lên. Lưỡi rìu được vị Tỳ-khưu ở phía trên nắm lấy vụng về đã chạm mạnh vào đỉnh đầu của vị Tỳ-khưu ở bên dưới. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, không cố ý thì vô tội. (19)
19. Vào lúc bấy giờ, các Tỳ-khưu ở thành Āḷavi xây dựng công trình mới. Có vị Tỳ-khưu nọ ở bên dưới đã đưa lưỡi rìu lên. Vị Tỳ-khưu ở phía trên có ý muốn gây tử vong nên đã thả lưỡi rìu ở đỉnh đầu của vị Tỳ-khưu ở bên dưới. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. ...(nt)... [đã phạm tội Pārājika. Vào lúc bấy giờ, ...(nt)...] Vị Tỳ-khưu ấy đã không bị chết. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (20-21)
20. Vào lúc bấy giờ, các Tỳ-khưu ở thành Āḷavi xây dựng công trình mới. Có vị Tỳ-khưu nọ ở bên dưới đã đưa khung gỗ lên. Vị Tỳ-khưu ở phía trên nắm lấy vụng về khiến khung gỗ chạm mạnh vào đỉnh đầu của vị Tỳ-khưu ở bên dưới. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, không cố ý thì vô tội. (22)
21. Vào lúc bấy giờ, các Tỳ-khưu ở thành Āḷavi xây dựng công trình mới. Có vị Tỳ-khưu nọ ở bên dưới đã đưa khung gỗ lên. Vị Tỳ-khưu ở phía trên có ý muốn gây tử vong nên đã thả khung gỗ ở đỉnh đầu của vị Tỳ-khưu ở bên dưới. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. ...(nt)... [đã phạm tội Pārājika. Vào lúc bấy giờ, ...(nt)...] Vị Tỳ-khưu ấy đã không bị chết. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (23-24)
22. Vào lúc bấy giờ, các Tỳ-khưu ở thành Āḷavi, trong khi xây dựng công trình mới, buộc lại cái giàn giáo. Có vị Tỳ-khưu nọ đã nói với vị Tỳ-khưu khác điều này:
– Này Đại đức, hãy đứng ở chỗ này rồi buộc lại.
Vị ấy đã đứng ở chỗ ấy, trong khi buộc lại đã bị té xuống và chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, [khi ấy] ngươi có tâm gì?
– Bạch Thế Tôn, con không có ý muốn gây tử vong.
– Này Tỳ-khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội. (25)
23. Vào lúc bấy giờ, các Tỳ-khưu ở thành Āḷavi, trong khi xây dựng công trình mới, buộc lại cái giàn giáo. Có vị Tỳ-khưu nọ có ý muốn gây tử vong đã nói với vị Tỳ-khưu khác điều này:
– Này Đại đức, hãy đứng ở chỗ này rồi buộc lại.
Vị ấy đã đứng ở chỗ ấy, trong khi buộc lại đã bị té xuống và chết đi. ...(nt)... [đã phạm tội Pārājika. Vào lúc bấy giờ, ...(nt)...đứng ở chỗ ấy] đã bị té xuống và không bị chết. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (26-27)
24. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ lợp xong trú xá và leo xuống. Có vị Tỳ-khưu khác đã nói với vị Tỳ-khưu ấy điều này:
– Này Đại đức, hãy leo xuống từ chỗ này.
Vị ấy trong khi leo xuống bằng chỗ ấy đã bị té xuống và chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội. (28)
25. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ lợp xong trú xá và leo xuống. Có vị Tỳ-khưu khác có ý muốn gây tử vong đã nói với vị Tỳ-khưu ấy điều này:
– Này Đại đức, hãy leo xuống từ chỗ này.
Vị ấy trong khi leo xuống bằng chỗ ấy đã bị té xuống và chết đi. ...(nt)... [đã phạm tội Pārājika. Vào lúc bấy giờ, ...(nt)...] đã bị té xuống và không bị chết. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (29-30)
26. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị bực bội bởi sự không thỏa thích nên đã leo lên đỉnh Gijjhakūṭa, trong khi lao xuống vách núi đã chạm người đan giỏ nọ và đã gây ra tử vong. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika. Và này các Tỳ-khưu, không nên lao mình xuống; vị nào lao xuống thì phạm tội Dukkaṭa. (31)
27. Vào lúc bấy giờ, các Tỳ-khưu nhóm Lục Sư, sau khi leo lên Gijjhakūṭa đã ném đá để đùa giỡn. Viên đá đã chạm vào người chăn bò nọ và gây ra tử vong. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika. Và này các Tỳ-khưu, không nên ném đá để đùa giỡn; vị nào ném thì phạm tội Dukkaṭa. (32)
28. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị bệnh. Các Tỳ-khưu đã hơ nóng vị ấy. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội. (33)
29. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị bệnh. Các Tỳ-khưu có ý muốn gây tử vong đã hơ nóng vị ấy. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. ...(nt)... [đã phạm tội Pārājika. Vào lúc bấy giờ, ...(nt)...] Vị Tỳ-khưu ấy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (34-35)
30. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị bệnh nóng đầu. Các Tỳ-khưu đã cho vị ấy thuốc ở mũi. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội. (36)
31. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị bệnh nóng đầu. Các Tỳ-khưu có ý muốn gây tử vong đã cho vị ấy thuốc ở mũi. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. ...(nt)... [đã phạm tội Pārājika. Vào lúc bấy giờ, ...(nt)...] Vị Tỳ-khưu ấy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (37-38)
32. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị bệnh. Các Tỳ-khưu đã xoa bóp vị ấy. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội. (39)
33. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị bệnh. Các Tỳ-khưu có ý muốn gây tử vong đã xoa bóp vị ấy. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. ...(nt)... [đã phạm tội Pārājika. Vào lúc bấy giờ, ...(nt)...] Vị Tỳ-khưu ấy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (40-41)
34. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị bệnh. Các Tỳ-khưu đã tắm cho vị ấy. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội. (42)
35. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị bệnh. Các Tỳ-khưu có ý muốn gây tử vong đã tắm cho vị ấy. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. ...(nt)... [đã phạm tội Pārājika. Vào lúc bấy giờ, ...(nt)...] Vị Tỳ-khưu ấy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (43-44)
36. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị bệnh. Các Tỳ-khưu đã thoa dầu cho vị ấy. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội. (45)
37. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị bệnh. Các Tỳ-khưu có ý muốn gây tử vong đã thoa dầu cho vị ấy. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. ...(nt)... [đã phạm tội Pārājika. Vào lúc bấy giờ, ...(nt)...] Vị Tỳ-khưu ấy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (46-47)
38. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị bệnh. Các Tỳ-khưu đã đỡ vị ấy đứng dậy. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội. (48)
39. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị bệnh. Các Tỳ-khưu có ý muốn gây tử vong đã đỡ vị ấy đứng dậy. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. ...(nt)... [đã phạm tội Pārājika. Vào lúc bấy giờ, ...(nt)...] Vị Tỳ-khưu ấy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (49-50)
40. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị bệnh. Các Tỳ-khưu đã làm vị ấy ngã xuống. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội. (51)
41. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị bệnh. Các Tỳ-khưu có ý muốn gây tử vong đã làm vị ấy ngã xuống. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. ...(nt)... [đã phạm tội Pārājika. Vào lúc bấy giờ, ...(nt)...] Vị Tỳ-khưu ấy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (52-53)
42. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị bệnh. Các Tỳ-khưu đã cho vị ấy thức ăn. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội. (54)
43. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị bệnh. Các Tỳ-khưu có ý muốn gây tử vong đã cho vị ấy thức ăn. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. ...(nt)... [đã phạm tội Pārājika. Vào lúc bấy giờ, ...(nt)...] Vị Tỳ-khưu ấy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (55-56)
44. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị bệnh. Các Tỳ-khưu đã cho vị ấy thức uống. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội. (57)
45. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị bệnh. Các Tỳ-khưu có ý muốn gây tử vong đã cho vị ấy thức uống. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. ...(nt)... [đã phạm tội Pārājika. Vào lúc bấy giờ, ...(nt)...] Vị Tỳ-khưu ấy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (58-59)
46. Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ có chồng đi vắng đã mang thai với tình nhân. Cô ấy đã nói với vị Tỳ-khưu thường lui tới với gia đình điều này:
– Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc làm sẩy thai đi.
– Này chị gái, tốt thôi.
Rồi vị Tỳ-khưu đã cho cô ấy thuốc làm sẩy thai. Đứa bé trai đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (60)
47. Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ có hai vợ, một cô không sanh sản, một cô còn sanh sản. Người đàn bà không sanh sản đã nói với vị Tỳ-khưu thường lui tới với gia đình điều này:
– Thưa ngài, nếu cô ấy sanh con thì sẽ trở thành chủ nhân của toàn bộ tài sản. Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc làm sẩy thai đi.
– Này chị gái, tốt thôi.
Rồi vị Tỳ-khưu đã cho cô ấy thuốc làm sẩy thai. Đứa bé trai đã chết đi. Người mẹ đã không bị chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (61)
48. Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ có hai vợ, một cô không sanh sản, một cô còn sanh sản. Người đàn bà không sanh sản đã nói với vị Tỳ-khưu thường lui tới với gia đình điều này:
– Thưa ngài, nếu cô ấy sanh con thì sẽ trở thành chủ nhân của toàn bộ tài sản. Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc làm sẩy thai đi.
– Này chị gái, tốt thôi.
Rồi vị Tỳ-khưu đã cho cô ấy thuốc làm sẩy thai. Người mẹ đã chết đi. Đứa bé trai đã không bị chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (62)
49. Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ có hai vợ, một cô không sanh sản, một cô còn sanh sản. Người đàn bà không sanh sản đã nói với vị Tỳ-khưu thường lui tới với gia đình điều này:
– Thưa ngài, nếu cô ấy sanh con thì sẽ trở thành chủ nhân của toàn bộ tài sản. Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc làm sẩy thai đi.
– Này chị gái, tốt thôi.
Rồi vị Tỳ-khưu đã cho cô ấy thuốc làm sẩy thai. Cả hai đã chết đi. ...(nt)... [đã phạm tội Pārājika. Vào lúc bấy giờ, ...(nt)...] Cả hai đã không bị chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (63-64)
50. Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ có thai đã nói với vị Tỳ-khưu thường lui tới với gia đình điều này:
– Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc làm sẩy thai đi.
– Này chị gái, như thế thì hãy tự chà xát.
Cô ấy đã chà xát và đã làm sẩy thai. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (65)
51. Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ có thai đã nói với vị Tỳ-khưu thường lui tới với gia đình điều này:
– Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc làm sẩy thai đi.
– Này chị gái, như thế thì hãy đốt nóng.
Cô ấy đã đốt nóng và đã làm sẩy thai. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (66)
52. Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ không sanh sản đã nói với vị Tỳ-khưu thường lui tới với gia đình điều này:
– Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc làm cho tôi có thể sanh sản.
– Này chị gái, tốt thôi.
Rồi vị Tỳ-khưu đã cho cô ấy thuốc. Cô ấy đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Dukkaṭa. (67)
53. Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ còn sanh sản đã nói với vị Tỳ-khưu thường lui tới với gia đình điều này:
– Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc làm cho tôi không còn sanh sản.
– Này chị gái, tốt thôi.
Rồi vị Tỳ-khưu đã cho cô ấy thuốc. Cô ấy đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Dukkaṭa. (68)
54. Vào lúc bấy giờ, các Tỳ-khưu nhóm Lục Sư đã làm cho vị Tỳ-khưu nhóm Mười Bảy Sư cười bằng cách dùng ngón tay thọt léc. Vị Tỳ-khưu ấy trong khi rối loạn không thở ra được nên đã chết đi. Các vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika. (69)
55. Vào lúc bấy giờ, các Tỳ-khưu nhóm Mười Bảy Sư [nghĩ rằng]: “Chúng ta sẽ gây chuyện”, rồi chạm mạnh vào vị Tỳ-khưu nhóm Lục Sư, khiến vị ấy chết đi. Các vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika. (70)
56. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ là thầy chữa bệnh tà ma đã đoạt lấy mạng sống của loài dạ-xoa. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (71)
57. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ đã phái vị Tỳ-khưu khác đến trú xá có dạ-xoa dữ tợn. Các dạ-xoa đã đoạt lấy mạng sống vị ấy. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội. (72)
58. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ có ý muốn gây tử vong đã phái vị Tỳ-khưu khác đến trú xá có dạ-xoa dữ tợn. Các dạ-xoa đã đoạt mạng vị ấy. ...(nt)... [đã phạm tội Pārājika. Vào lúc bấy giờ, ...(nt)...] Các dạ-xoa đã không đoạt mạng vị ấy. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (73-74)
59. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ đã phái vị Tỳ-khưu khác đến khu rừng có thú dữ. Các thú dữ đã đoạt lấy mạng sống vị ấy. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội. (75)
60. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ có ý muốn gây tử vong đã phái vị Tỳ-khưu khác đến khu rừng có thú dữ. Các thú dữ đã đoạt mạng vị ấy. ...(nt)... [đã phạm tội Pārājika. Vào lúc bấy giờ, ...(nt)...] Các thú dữ đã không đoạt mạng vị ấy. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (76-77)
61. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ đã phái vị Tỳ-khưu khác đến khu rừng có cướp. Các kẻ cướp đã đoạt mạng vị ấy. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội. (78)
62. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ có ý muốn gây tử vong đã phái vị Tỳ-khưu khác đến khu rừng có cướp. Các kẻ cướp đã đoạt mạng vị ấy. ...(nt)... [đã phạm tội Pārājika. Vào lúc bấy giờ, ...(nt)...] Các kẻ cướp đã không đoạt mạng vị ấy. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (79-80)
63. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ nhận ra người ấy rồi đã đoạt mạng người ấy, nhận ra người ấy rồi đã đoạt mạng người khác, nhận ra người khác rồi đã đoạt mạng người ấy, nhận ra người khác rồi đã đoạt mạng người khác. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (81-84)
64. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị phi nhân chiếm giữ. Có vị Tỳ-khưu khác đã đánh vào vị Tỳ-khưu ấy. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội. (85)
65. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ bị phi nhân chiếm giữ. Có vị Tỳ-khưu khác có ý muốn gây tử vong đã đánh vào vị Tỳ-khưu ấy. Vị Tỳ-khưu ấy đã chết đi. ...(nt)... [đã phạm tội Pārājika. Vào lúc bấy giờ, ...(nt)...] Vị Tỳ-khưu ấy đã không bị chết. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (86-87)
66. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ thuyết về cõi trời của nghiệp lành. Người ấy bị tác động nên đã chết đi. Vị [Tỳ-khưu] ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội. (88)
67. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ có ý muốn gây tử vong thuyết về cõi trời của nghiệp lành. Người ấy bị tác động nên đã chết đi. ...(nt)... [đã phạm tội Pārājika. Vào lúc bấy giờ, ...(nt)...] Người ấy bị tác động đã không bị chết. Vị [Tỳ-khưu] ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (89-90)
68. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ thuyết về địa ngục của kẻ đi địa ngục. Người ấy bị hoảng hốt và đã chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội. (91)
69. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ có ý muốn gây tử vong, thuyết về địa ngục của kẻ đi địa ngục. Người ấy bị hoảng hốt và đã chết. ...(nt)... [đã phạm tội Pārājika. Vào lúc bấy giờ, ...(nt)...] Người ấy bị hoảng hốt và đã không bị chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (92-93)
70. Vào lúc bấy giờ, các Tỳ-khưu ở Āḷavi chặt cây trong khi làm công trình mới. Có vị Tỳ-khưu nọ đã nói với vị Tỳ-khưu khác điều này:
– Này Đại đức, hãy đứng ở chỗ này rồi chặt.
Trong khi vị ấy đứng ở chỗ ấy đang chặt thì cây đã ngã xuống và giết chết. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội. (94)
71. Vào lúc bấy giờ, các Tỳ-khưu ở Āḷavi chặt cây trong khi làm công trình mới. Có vị Tỳ-khưu nọ có ý muốn gây tử vong đã nói với vị Tỳ-khưu khác điều này:
– Này Đại đức, hãy đứng ở chỗ này rồi chặt.
Trong khi vị ấy đứng ở chỗ ấy đang chặt thì cái cây đã ngã xuống và giết chết. ...(nt)... [đã phạm tội Pārājika. Vào lúc bấy giờ, ...(nt)...] cây đã ngã xuống và không giết chết. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (95-96)
72. Vào lúc bấy giờ, các Tỳ-khưu nhóm Lục Sư đã nổi lửa đốt rừng. Dân chúng bị đốt cháy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội. (97)
73. Vào lúc bấy giờ, các Tỳ-khưu nhóm Lục Sư có ý muốn gây tử vong đã nổi lửa đốt rừng. Dân chúng bị đốt cháy đã chết đi. ...(nt)... [đã phạm tội Pārājika. Vào lúc bấy giờ, ...(nt)...] Dân chúng bị đốt cháy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, [các ngươi] không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (98-99)
74. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, sau khi đi đến pháp trường đã nói với viên xử tử kẻ cướp điều này:
– Này đạo hữu, chớ để người này bị khổ sở. Hãy đoạt lấy mạng sống bằng một nhát.
– Thưa ngài, tốt thôi!
Rồi đã đoạt lấy mạng sống bằng một nhát. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (100)
75. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, sau khi đi đến pháp trường đã nói với viên xử tử kẻ cướp điều này:
– Này đạo hữu, chớ để người này bị khổ sở. Hãy đoạt lấy mạng sống bằng một nhát.
– Tôi sẽ không làm theo lời nói của ngài!
Rồi đã đoạt lấy mạng sống kẻ ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, không phạm tội Pārājika mà phạm tội Dukkaṭa. (101)
76. Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ bị đứt lìa tay chân, được các thân quyến vây quanh tại nhà của thân quyến. Có vị Tỳ-khưu nọ đã nói với những người ấy điều này:
– Này các đạo hữu, các vị có muốn cái chết cho người này không?
– Thưa ngài, đúng vậy. Chúng tôi muốn.
– Như thế thì hãy cho uống sữa còn bơ.
Họ đã cho người ấy uống sữa còn bơ. Người ấy đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).
– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (102)
77. Vào lúc bấy giờ, có người nam nọ bị đứt lìa tay chân, được thân quyến vây quanh tại nhà của gia đình. Có Tỳ-khưu-ni nọ đã nói với những người ấy điều này:
– Này các vị, có muốn cái chết cho anh ta không?
– Vâng, Ni sư. Chúng tôi muốn.
– Vậy hãy cho uống giấm mặn.
Họ đã cho anh ta uống giấm mặn. Anh ta đã chết. Vị Ni ấy đã có nỗi nghi hoặc. Sau đó, Tỳ-khưu-ni ấy đã kể lại việc ấy cho các Tỳ-khưu-ni. Các Tỳ-khưu-ni đã kể lại việc ấy cho các Tỳ-khưu. Các Tỳ-khưu đã trình việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(nt).
– Này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni ấy đã phạm tội Pārājika. (103)
Điều Pārājika thứ ba được đầy đủ.
--oo0oo--