Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng thánh điển PGVN 10 » Tạng Tam Tạng Thượng Toạn Bộ 10 »

PHÂN TÍCH GIỚI BỔN 
(Suttavibhaṅga)
Tỳ-Khưu INDACANDA

Mục Lục

2.2. CHUYỆN DẪN GIẢI KỆ NGÔN TÓM LƯỢC

 

Năm chuyện được thuật lại bởi những người thợ nhuộm, bốn chuyện về những tấm vải choàng, năm chuyện về ban đêm, năm và sáu chuyện nữa liên quan đến việc mang vác.

Năm chuyện được thuật lại về lối nói, hai chuyện khác về gió, ở [thi thể] chưa hoại, việc rút thăm cỏ kusa, với chuyện nhà tắm thứ mười.

Năm chuyện được thuật lại về vật thú ăn thừa lại và cũng năm chuyện liên quan đến việc vô căn cứ, lúc khó khăn vật thực, cơm, thịt, bánh nướng, bánh ngọt, và thịt ngọt.

Vật dụng, túi xách, tấm nệm, sào máng y, vị đã không đi ra và vật nên được ăn do thân thiết, hai chuyện khác về lầm tưởng của mình.

Chúng tôi không lấy trộm có bảy chuyện và họ đã lấy trộm cũng bảy chuyện, họ đã lấy trộm của hội chúng bảy chuyện, hai chuyện khác về bông hoa.

Và nhân danh người khác nói có ba chuyện, đem qua ba viên ngọc ma-ni, các con heo rừng, nai, cá và vị đã di chuyển luôn cả chiếc xe.

Chim tha đi hai chuyện, hai chuyện về khúc gỗ, vải quăng bỏ, hai chuyện về nước, theo lần lượt, sự phân công, chuyện khác về việc ấy đã chưa làm cho đủ số.

Bốn chuyện về nắm tay ở trong thành Sāvatthi, phần còn thừa hai chuyện, hai chuyện về cỏ, [trái cây] thuộc hội chúng, họ đã chia phần có bảy chuyện và bảy chuyện nữa về không có chủ.

Gỗ, nước, đất sét, hai chuyện về cỏ, họ đã trộm vật thuộc hội chúng có bảy chuyện và cũng không nên di chuyển vật có chủ nhân, chỉ tạm thời mang đi vật có chủ thì được.

Campā và luôn cả Vương Xá, vị Ajjuka ở thành Vesālī, chuyện Bārāṇasī và ở Kosambī, vị Daḷhika ở thành Sāgalā.

1. Vào lúc bấy giờ, các Tỳ-khưu nhóm Lục Sư đã đi đến chỗ nhuộm y và lấy trộm gói đồ nhuộm. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Điều học đã được đức Thế Tôn quy định; phải chăng chúng ta đã phạm tội Pārājika?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, các ngươi đã phạm tội Pārājika. (1)

2. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, sau khi đi đến chỗ nhuộm y, nhìn thấy tấm vải quý giá nên đã khởi lên tâm trộm cắp. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Phải chăng ta đã phạm tội Pārājika?” Vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi vô tội trong việc sanh khởi tâm. (2)

3. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, sau khi đi đến chỗ nhuộm y, nhìn thấy tấm vải quý giá nên khởi tâm trộm cắp rồi đã sờ vào. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi không phạm tội Pārājika mà phạm tội Dukkaṭa. (3)

4. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, sau khi đi đến chỗ nhuộm y, nhìn thấy tấm vải quý giá nên khởi tâm trộm cắp, rồi đã làm lay động. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi không phạm tội Pārājika mà phạm tội Thullaccaya. (4)

5. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, sau khi đến chỗ nhuộm y, nhìn thấy tấm vải quý giá nên khởi tâm trộm cắp, rồi đã làm dời khỏi vị trí. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (5)

6. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ đi khất thực, sau khi nhìn thấy tấm vải choàng quý giá đã khởi lên tâm trộm cắp. ...(nt)... khởi tâm trộm cắp, rồi đã sờ vào. ...(nt)... khởi tâm trộm cắp, rồi đã làm lay động. ...(nt)... khởi tâm trộm cắp, rồi đã làm dời khỏi vị trí. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (6-9)

7. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, sau khi nhìn thấy đồ vật vào ban ngày, rồi đã làm dấu hiệu [nghĩ rằng]: “Ta sẽ lấy trộm vào ban đêm.” Vị ấy nhận ra vật ấy, rồi đã lấy trộm vật ấy. ...(nt)... nhận ra vật ấy, rồi đã lấy trộm vật khác. ...(nt)... nhận ra vật khác, rồi đã lấy trộm vật ấy. ...(nt)... nhận ra vật khác, rồi đã lấy trộm vật khác. ...(nt)... Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (10-13)

8. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, sau khi nhìn thấy đồ vật vào ban ngày, rồi đã làm dấu hiệu [nghĩ rằng]: “Ta sẽ lấy trộm vào ban đêm.” Vị ấy nhận ra vật ấy rồi đã lấy trộm [nhầm] đồ vật của chính mình. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi không phạm tội Pārājika mà phạm tội Dukkaṭa. (14)

9. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, trong lúc mang đồ vật của người khác, khởi tâm trộm cắp gói đồ ở trên đầu, rồi đã sờ vào. ...(nt)... khởi tâm trộm cắp, rồi đã làm lay động. ...(nt)... khởi tâm trộm cắp, rồi đã đưa xuống vai. ...(nt)... khởi tâm trộm cắp, rồi đã sờ vào gói đồ ở trên vai. ...(nt)... khởi tâm trộm cắp, rồi đã làm lay động. ...(nt)... khởi tâm trộm cắp, rồi đã đưa xuống hông. ...(nt)... khởi tâm trộm cắp gói đồ ở hông, rồi đã sờ vào. ...(nt)... khởi tâm trộm cắp, rồi đã làm lay động. ...(nt)... khởi tâm trộm cắp, rồi đã cầm lấy bằng tay. ...(nt)... khởi tâm trộm cắp gói đồ ở tay, rồi đã đặt xuống đất ...(nt)... khởi tâm trộm cắp, rồi đã nhấc lên khỏi mặt đất. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (15-25)

10. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ đã căng y ở ngoài trời, rồi đi vào trong trú xá. Có vị Tỳ-khưu khác [nghĩ rằng]: “Chớ để y này bị hư hỏng” nên đã đem cất đi. Vị kia đi ra rồi đã hỏi vị Tỳ-khưu ấy rằng:

– Này Đại đức, y của tôi đã bị ai lấy trộm?

Vị ấy đã nói như vầy:

– Đã bị tôi lấy trộm.

Vị kia đã giữ vị ấy lại [nói rằng]:

– Ngươi không phải là Sa-môn.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(nt)... Vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

– Này Tỳ-khưu, [khi ấy] ngươi có tâm gì?

– Bạch Thế Tôn, con [đáp lại] thuận theo câu nói.

– Này Tỳ-khưu, ngươi vô tội trong việc [đáp lại] thuận theo câu nói. (26)

11. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ đã để y ở trên ghế. ...(nt)... đã để tấm lót ngồi ở trên ghế ...(nt)... đã để bình bát ở dưới ghế, rồi đi vào trong trú xá. Có vị Tỳ-khưu khác [nghĩ rằng]: “Chớ để bình bát này bị hư hỏng” nên đã đem cất đi. Vị kia đi ra rồi đã hỏi vị Tỳ-khưu ấy rằng:

– Này Đại đức, bình bát của tôi đã bị ai lấy trộm?

Vị ấy đã nói như vầy:

– Đã bị tôi lấy trộm.

Vị kia đã giữ vị ấy lại [nói rằng]:

– Ngươi không phải là Sa-môn.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi vô tội trong việc [đáp lại] thuận theo câu nói. (27-29)

12. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu-ni nọ đã căng y ở hàng rào, rồi đi vào trong trú xá. Có vị Tỳ-khưu-ni khác [nghĩ rằng]: “Chớ để y này bị hư hỏng” nên đã đem cất đi. Vị Ni kia đi ra rồi đã hỏi vị Tỳ-khưu-ni ấy rằng:

– Này Ni sư, y của tôi đã bị ai lấy trộm?

Vị Ni ấy đã nói như vầy:

– Đã bị tôi lấy trộm.

Vị Ni kia đã giữ vị Ni ấy lại [nói rằng]:

– Cô không còn là nữ Sa-môn nữa.

Vị Ni ấy đã có nỗi nghi hoặc. Sau đó, vị Tỳ-khưu-ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các Tỳ-khưu-ni. Các Tỳ-khưu-ni đã kể lại sự việc ấy cho các Tỳ-khưu. Các Tỳ-khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

– Này các Tỳ-khưu, vị ấy vô tội trong việc [đáp lại] thuận theo câu nói. (30)

13. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, sau khi nhìn thấy tấm vải choàng bị cuốn đi bởi cơn gió xoáy [nghĩ rằng]: “Ta sẽ cho lại những người chủ”, rồi đã nhặt lấy. Những người chủ đã quở trách vị Tỳ-khưu ấy rằng:

– Ngươi không phải là Sa-môn.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, [khi ấy] ngươi có tâm gì?

– Bạch Thế Tôn, con không có tâm trộm cắp.

– Này Tỳ-khưu, vị không có tâm trộm cắp thì vô tội. (31)

14. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ khởi tâm trộm cắp cái khăn xếp đội đầu bị cuốn đi bởi cơn gió xoáy [nghĩ rằng]: “[Phải hành động] trước khi những người chủ nhìn thấy”, rồi đã nhặt lấy. Những người chủ đã quở trách vị Tỳ-khưu ấy rằng:

– Ngươi không phải là Sa-môn.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (32)

15. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, sau khi đi vào nơi nghĩa địa, đã nhặt lấy vải paṃsukūla ở thi thể chưa hoại. Và có ngạ quỷ trú trong thi thể ấy. Khi ấy, ngạ quỷ ấy đã nói với vị Tỳ-khưu điều này:

– Thưa ngài, xin chớ lấy đi tấm vải choàng của tôi.

Vị Tỳ-khưu ấy không chú ý đến nên đã nhặt lấy. Khi ấy, thi thể ấy đã đứng dậy và đi sát phía sau vị Tỳ-khưu ấy. Sau đó, vị Tỳ-khưu ấy đã đi vào trú xá và đóng cửa lại. Khi ấy, thi thể ấy đã té xuống ngay tại chỗ ấy.[1] Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi không phạm tội Pārājika. Và này các Tỳ-khưu, không nên lấy vải paṃsukūla ở thi thể chưa hoại; vị nào lấy thì phạm tội Dukkaṭa. (33)

16. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, trong lúc phân chia các y của hội chúng khởi tâm trộm cắp nên đã tráo thăm và đã lấy được y. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (34)

17. Vào lúc bấy giờ, ở trong nhà tắm hơi, Đại đức Ānanda [lầm] tưởng y nội của vị Tỳ-khưu khác là của mình nên đã mặc vào. Khi ấy, vị Tỳ-khưu ấy đã nói với Đại đức Ānanda điều này:

– Này Đại đức Ānanda, sao Đại đức lại mặc y nội của tôi?

– Này Đại đức, tôi tưởng là của tôi.

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

– Này các Tỳ-khưu, vị [lầm] tưởng là của mình thì vô tội. (35)

18. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị Tỳ-khưu trong lúc từ Gijjhakūṭa đi xuống, đã nhìn thấy phần thịt ăn còn thừa của sư tử nên đã cho nấu chín rồi thọ dụng. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, [trong trường hợp] phần thịt ăn còn thừa của sư tử thì vô tội. (36)

19. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị Tỳ-khưu trong lúc từ Gijjhakūṭā đi xuống, đã nhìn thấy phần thịt ăn còn thừa của loài cọp ...(nt)... đã nhìn thấy phần thịt ăn còn thừa của loài beo ...(nt)... đã nhìn thấy phần thịt ăn còn thừa của loài linh cẩu ...(nt)... đã nhìn thấy phần thịt ăn còn thừa của chó sói nên đã cho nấu chín rồi thọ dụng. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, [trong trường hợp] vật thuộc về loài thú thì vô tội. (37-40)

20. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, trong khi cơm của hội chúng được phân chia [đã nói rằng]: “Hãy trao cho tôi phần của vị khác”, rồi đã lấy phần của vị không có hiện hữu. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi không phạm tội Pārājika mà phạm tội Pācittiya trong việc cố tình nói dối.[2] (41)

21. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, trong khi vật thực cứng của hội chúng  được phân chia ...(nt)... trong khi bánh nướng của hội chúng  được phân chia ...(nt)... trong khi mía cây của hội chúng  được phân chia ...(nt)... trong khi dưa của hội chúng  được phân chia ...(nt)... [nói rằng]: “Hãy trao cho tôi phần của vị khác”, rồi đã lấy phần của vị không có hiện hữu. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi không phạm tội Pārājika mà phạm tội Pācittiya trong việc cố tình nói dối. (42-45)

22. Vào lúc bấy giờ, trong thời kỳ khó khăn về vật thực, có vị Tỳ-khưu nọ, sau khi đi vào cửa hàng bán cơm đã khởi tâm trộm cắp và đã lấy trộm phần cơm đầy bát. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (46)

23. Vào lúc bấy giờ, trong thời kỳ khó khăn về vật thực, có vị Tỳ-khưu nọ, sau khi đi vào cửa hàng bán thịt đã khởi tâm trộm cắp và đã lấy trộm phần thịt đầy bát. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (47)

24. Vào lúc bấy giờ, trong thời kỳ khó khăn về vật thực, có vị Tỳ-khưu nọ, sau khi đi vào cửa hàng bán bánh nướng đã khởi tâm trộm cắp và đã lấy trộm phần bánh nướng đầy bát. ...(nt)... đã khởi tâm trộm cắp và đã lấy trộm phần bánh ngọt đầy bát. ...(nt)... đã khởi tâm trộm cắp và đã lấy trộm phần thịt ngọt đầy bát. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (48-50)

25. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, sau khi nhìn thấy vật dụng vào ban ngày, rồi đã làm dấu hiệu [nghĩ rằng]: “Ta sẽ lấy trộm vào ban đêm.” Vị ấy nhận ra vật ấy rồi đã lấy trộm vật ấy. ...(nt)... Vị ấy nhận ra vật ấy rồi đã lấy trộm vật khác. ...(nt)... Vị ấy nhận ra vật khác rồi đã lấy trộm vật ấy. ...(nt)... Vị ấy nhận ra vật khác rồi đã lấy trộm vật khác. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (51-54)

26. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, sau khi nhìn thấy vật dụng vào ban ngày, rồi đã làm dấu hiệu [nghĩ rằng]: “Ta sẽ lấy trộm vào ban đêm.” Vị ấy nhận ra vật ấy rồi đã lấy trộm vật dụng của chính mình. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi không phạm tội Pārājika mà phạm tội Dukkaṭa. (55)

27. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, sau khi nhìn thấy túi xách ở trên ghế [nghĩ rằng]: “Trong khi lấy từ chỗ này thì ta sẽ phạm tội Pārājika” nên đã di chuyển luôn cả cái ghế rồi mới đoạt lấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (56)

28. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ có ý định trộm cắp và đã lấy trộm nệm của hội chúng. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (57)

29. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ có ý định trộm cắp và đã lấy trộm y ở sào máng y. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (58)

30. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, sau khi lấy trộm y ở trong trú xá [nghĩ rằng]: “Khi đi ra khỏi đây thì ta sẽ phạm tội Pārājika”, rồi đã không đi ra khỏi trú xá. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

– Này các Tỳ-khưu, kẻ rồ dại ấy dầu có đi ra hay không đi ra cũng đã phạm tội Pārājika. (59)

31. Vào lúc bấy giờ, có hai vị Tỳ-khưu là bạn bè, một vị đã đi vào làng để khất thực. Còn vị thứ nhì, trong khi vật thực cứng của hội chúng được phân phát, đã nhận phần của người bạn và đã thọ dụng do sự thân thiết với vị ấy. Vị kia biết được đã quở trách vị ấy rằng:

– Ngươi không phải là Sa-môn.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc và đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

– Này Tỳ-khưu, [khi ấy] ngươi có tâm gì?

– Bạch Thế Tôn, con lấy do sự thân thiết.

– Này Tỳ-khưu, trường hợp lấy do sự thân thiết thì vô tội.[3] (60)

32. Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị Tỳ-khưu thực hiện việc may y. Khi vật thực cứng của hội chúng được phân chia, các phần chia của tất cả các vị đã được mang đến và để ở bên cạnh. Có vị Tỳ-khưu nọ [lầm] tưởng phần chia của vị Tỳ-khưu khác là của mình nên đã thọ dụng. Vị kia biết được đã quở trách vị ấy rằng:

– Ngươi không phải là Sa-môn.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc và đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

– Này Tỳ-khưu, vị [lầm] tưởng là của mình thì vô tội. (61)

33. Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị Tỳ-khưu thực hiện việc may y. Khi vật thực cứng của hội chúng  đang được phân chia, phần chia của vị Tỳ-khưu nọ được mang lại bằng bình bát của vị Tỳ-khưu khác và được để gần đó. Vị Tỳ-khưu chủ nhân của bình bát [lầm] tưởng là của mình nên đã thọ dụng. Vị kia biết được đã quở trách vị ấy rằng:

– Ngươi không phải là Sa-môn.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc và đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

– Này Tỳ-khưu, vị [lầm] tưởng là của mình thì vô tội. (62)

34. Vào lúc bấy giờ, có các kẻ trộm xoài đã hái xoài rồi mang theo gói [xoài] ra đi. Những người chủ đã đuổi theo các kẻ trộm ấy. Khi nhìn thấy những người chủ, các kẻ trộm đã đánh rơi gói [xoài] rồi tẩu thoát. Các vị Tỳ-khưu tưởng là vật quăng bỏ nên đã bảo nhặt lấy rồi đã thọ dụng. Những người chủ đã quở trách các vị Tỳ-khưu ấy rằng:

– Các người không phải là Sa-môn.

Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc và đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

– Này các Tỳ-khưu, [khi ấy] các ngươi có tâm gì?

– Bạch Thế Tôn, chúng con [lầm] tưởng là vật quăng bỏ.

– Này các Tỳ-khưu, vị [lầm] tưởng là vật quăng bỏ thì vô tội. (63)

35. Vào lúc bấy giờ, có các kẻ trộm trái táo hồng ...(nt)... các kẻ trộm trái bánh mì ...(nt)... các kẻ trộm trái mít ...(nt)... các kẻ trộm trái chà là ...(nt)... các kẻ trộm mía ...(nt)... các kẻ trộm dưa, sau khi gom các quả dưa lại, rồi đã mang theo gói [dưa] và bỏ đi. Những người chủ đã đuổi theo các kẻ trộm ấy. Khi nhìn thấy những người chủ, các kẻ trộm đã đánh rơi gói [dưa] rồi tẩu thoát. Các vị Tỳ-khưu tưởng rằng gói [dưa] ấy là vật quăng bỏ nên đã cho người nhặt lấy, rồi đã thọ dụng. Những người chủ đã quở trách các vị Tỳ-khưu ấy rằng:

– Các người không phải là Sa-môn.

Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, vị [lầm] tưởng là vật quăng bỏ thì vô tội. (64-69)

36. Vào lúc bấy giờ, có các kẻ trộm xoài đã hái xoài, rồi mang theo gói [xoài] và bỏ đi. Những người chủ đã đuổi theo các kẻ trộm ấy. Khi nhìn thấy những người chủ, các kẻ trộm đã đánh rơi gói [xoài] rồi tẩu thoát. Các vị Tỳ-khưu khởi tâm trộm cắp: “[Phải hành động] trước khi những người chủ nhìn thấy”, rồi đã thọ dụng. Những người chủ đã quở trách các vị Tỳ-khưu ấy rằng:

– Các người không phải là Sa-môn.

Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, các ngươi đã phạm tội Pārājika. (70)

37. Vào lúc bấy giờ, có các kẻ trộm trái táo hồng ...(nt)... các kẻ trộm trái bánh mì ...(nt)... các kẻ trộm trái mít ...(nt)... các kẻ trộm trái chà là ...(nt)... các kẻ trộm mía ...(nt)... các kẻ trộm dưa, sau khi gom các quả dưa lại rồi đã mang theo gói [dưa] và bỏ đi. Những người chủ đã đuổi theo các kẻ trộm ấy. Khi nhìn thấy những người chủ, các kẻ trộm đã đánh rơi gói [dưa] rồi tẩu thoát. Các vị Tỳ-khưu khởi tâm trộm cắp: “[Phải hành động] trước khi những người chủ nhìn thấy”, rồi đã thọ dụng. Những người chủ đã quở trách các vị Tỳ-khưu ấy rằng:

– Các người không phải là Sa-môn.

Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, các ngươi đã phạm tội Pārājika. (71-76)

38. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ khởi tâm trộm cắp, và đã lấy trộm xoài của hội chúng ...(nt)... khởi tâm trộm cắp, và đã lấy trộm trái táo hồng của hội chúng ...(nt)... trái bánh mì của hội chúng ...(nt)... trái mít của hội chúng ...(nt)... trái chà là của hội chúng ...(nt)... mía của hội chúng ...(nt)... dưa của hội chúng. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (77-83)

39. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, sau khi đi đến vườn hoa, khởi tâm trộm cắp và đã lấy trộm bông hoa đã được hái trị giá năm māsaka. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (84)

40. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, sau khi đi đến vườn hoa đã hái các bông hoa, rồi khởi tâm trộm cắp, đã lấy trộm [hoa] trị giá năm māsaka. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (85)

41. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, trong lúc đi đến ngôi làng nhỏ, đã nói với vị Tỳ-khưu khác điều này:

– Này Đại đức, nhân danh Đại đức, tôi sẽ nói với gia đình hộ độ của Đại đức.

Vị ấy sau khi đi đến đã bảo đem lại một tấm vải choàng và đã sử dụng cho bản thân. Vị kia biết được đã quở trách vị ấy rằng:

– Ngươi không phải là Sa-môn.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).       

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã không phạm tội Pārājika. Và này các Tỳ-khưu, không nên nói rằng: “Nhân danh Đại đức, tôi sẽ nói”; vị nào nói thì phạm tội Dukkaṭa. (86)

42. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ đi đến ngôi làng nhỏ. Có vị Tỳ-khưu nọ đã nói với vị Tỳ-khưu ấy điều này:

– Này Đại đức, nhân danh tôi, Đại đức hãy nói với gia đình hộ độ của tôi.

Vị ấy sau khi đi đến đã bảo đem lại hai tấm vải choàng, rồi đã sử dụng cho bản thân một tấm và đã trao cho vị Tỳ-khưu kia một tấm. Vị kia biết được đã quở trách vị ấy rằng:

– Ngươi không phải là Sa-môn.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã không phạm tội Pārājika. Và này các Tỳ-khưu, không nên nói rằng: “Nhân danh tôi, Đại đức hãy nói”; vị nào nói thì phạm tội Dukkaṭa. (87)

43. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ trong lúc đi đến ngôi làng nhỏ đã nói với vị Tỳ-khưu khác điều này:

– Này Đại đức, nhân danh Đại đức, tôi sẽ nói với gia đình hộ độ của Đại đức.

Vị kia cũng đã nói như vầy:

– Nhân danh tôi, Đại đức hãy nói với gia đình hộ độ của tôi.

Vị ấy sau khi đi đến đã bảo đem lại một āḷhakaṃ[4] bơ lỏng, một tulaṃ mật đường và một doṇaṃ gạo, rồi đã thọ dụng bởi chính bản thân. Vị kia biết được đã quở trách vị ấy rằng:

– Ngươi không phải là Sa-môn.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã không phạm tội Pārājika. Và này các Tỳ-khưu, không nên nói rằng: “Nhân danh Đại đức, tôi sẽ nói”, và không nên nói rằng: “Nhân danh tôi, Đại đức hãy nói”; vị nào nói thì phạm tội Dukkaṭa. (88)

44. Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ mang theo viên ngọc ma-ni quý giá cùng đi đường xa với vị Tỳ-khưu nọ. Sau đó, khi nhìn thấy trạm thuế, người đàn ông ấy đã lén bỏ viên ngọc ma-ni vào trong túi xách của vị Tỳ-khưu ấy, và sau khi qua khỏi trạm thuế đã lấy lại. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, [khi ấy] ngươi có tâm gì?

– Bạch Thế Tôn, con không biết.

– Này Tỳ-khưu, vị không biết thì vô tội. (89)

45. Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ mang viên ngọc ma-ni quý giá cùng đi đường xa với vị Tỳ-khưu nọ. Sau đó, khi nhìn thấy trạm thuế, người đàn ông ấy giả vờ bị bệnh rồi đã trao gói đồ của mình cho vị Tỳ-khưu ấy. Sau đó, khi đã qua khỏi trạm thuế, người đàn ông ấy đã nói với vị Tỳ-khưu ấy điều này:

– Thưa ngài, xin hãy trao gói đồ cho tôi. Tôi không có bệnh.

– Này đạo hữu, tại sao ngươi đã làm như thế?

Khi ấy, người đàn ông ấy đã kể lại sự việc ấy cho vị Tỳ-khưu ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, vị không biết thì vô tội. (90)

46. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ đi đường xa cùng với đoàn xe. Có người đàn ông nọ đã dùng vật chất mua chuộc vị Tỳ-khưu ấy, đến khi nhìn thấy trạm thuế đã trao cho vị Tỳ-khưu ấy viên ngọc ma-ni quý giá [nói rằng]:

– Thưa ngài, hãy đem viên ngọc ma-ni này qua khỏi trạm thuế.

Khi ấy, vị Tỳ-khưu ấy đã đem viên ngọc ma-ni ấy qua khỏi trạm thuế. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (91)

47. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, vì lòng thương xót con heo rừng bị mắc bẫy nên đã gỡ ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, [khi ấy] ngươi có tâm gì?

– Bạch Thế Tôn, con vì lòng thương xót.

– Này Tỳ-khưu, vị vì lòng thương xót thì vô tội. (92)

48. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ khởi tâm trộm cắp con heo rừng bị mắc bẫy: “[Phải hành động] trước khi các người chủ nhìn thấy”, rồi đã gỡ ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (93)

49. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ vì lòng thương xót con nai bị mắc bẫy nên đã gỡ ra. ...(nt)... khởi tâm trộm cắp con nai bị mắc bẫy: “[Phải hành động] trước khi các người chủ nhìn thấy”, rồi đã gỡ ra ...(nt)... vì lòng thương xót những con cá bị vướng vào rọ nên đã gỡ ra. ...(nt)... khởi tâm trộm cắp những con cá bị vướng vào rọ: “[Phải hành động] trước khi các người chủ nhìn thấy”, rồi đã gỡ ra. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (94-97)

50. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, sau khi nhìn thấy gói đồ ở trong chiếc xe [nghĩ rằng]: “Trong khi lấy từ chỗ này thì ta sẽ phạm tội Pārājika” nên đã đi vượt lên trên, xoay vần [gói đồ], rồi mới đoạt lấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (98)

51. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ đã nhặt lấy miếng thịt bị chim ưng tha đi [nghĩ rằng]: “Ta sẽ cho lại những người chủ.” Những người chủ đã quở trách vị Tỳ-khưu ấy rằng:

– Ngươi không phải là Sa-môn.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, vị không có tâm trộm cắp thì vô tội. (99)

52. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ có tâm trộm cắp miếng thịt bị chim ưng tha đi: “[Phải hành động] trước khi các người chủ nhìn thấy”, rồi đã nhặt lấy. Những người chủ đã quở trách vị Tỳ-khưu ấy rằng:

– Ngươi không phải là Sa-môn.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (100)

53. Vào lúc bấy giờ, dân chúng buộc [các khúc gỗ] lại thành bè rồi thả xuôi dòng sông Aciravatī. Khi dây buộc bị đứt, các khúc gỗ đã bị phân tán trôi đi. Các vị Tỳ-khưu tưởng là vật quăng bỏ nên đã vớt lên. Những người chủ đã quở trách các vị Tỳ-khưu ấy rằng:

– Các người không phải là Sa-môn.

Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, vị [lầm] tưởng là vật quăng bỏ thì vô tội. (101)

54. Vào lúc bấy giờ, dân chúng buộc [các khúc gỗ] lại thành bè rồi thả xuôi dòng sông Aciravatī. Khi dây buộc bị đứt, các khúc gỗ đã bị phân tán trôi đi. Các vị Tỳ-khưu khởi tâm trộm cắp: “[Phải hành động] trước khi các người chủ nhìn thấy”, rồi đã vớt lên. Những người chủ đã quở trách các vị Tỳ-khưu ấy rằng:

– Các người không phải là Sa-môn.

Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, các ngươi đã phạm tội Pārājika. (102)                

55. Vào lúc bấy giờ, có người chăn bò nọ đã treo tấm vải choàng trên cây rồi đi đại tiện. Có vị Tỳ-khưu nọ tưởng là vật quăng bỏ nên đã nhặt lấy. Khi ấy, người chăn bò ấy đã quở trách vị Tỳ-khưu ấy rằng:

– Ngươi không phải là Sa-môn.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, vị [lầm] tưởng là vật quăng bỏ thì vô tội. (103)

56. Vào lúc bấy giờ, trong lúc vị Tỳ-khưu nọ đang lội qua sông, có tấm vải choàng bị tuột khỏi tay của những người thợ nhuộm [trôi đến] vướng vào bàn chân [của vị ấy]. Vị Tỳ-khưu ấy đã nhặt lên [nghĩ rằng]: “Ta sẽ cho lại những người chủ.” Những người chủ đã quở trách vị Tỳ-khưu ấy rằng:

– Ngươi không phải là Sa-môn.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, vị không có tâm trộm cắp thì vô tội. (104)

57. Vào lúc bấy giờ, trong lúc vị Tỳ-khưu nọ đang lội qua sông, có tấm vải choàng bị tuột khỏi tay của những người thợ nhuộm [trôi đến] vướng vào bàn chân [của vị ấy]. Vị Tỳ-khưu ấy khởi tâm trộm cắp: “[Phải hành động] trước khi các người chủ nhìn thấy”, rồi đã nhặt lấy. Những người chủ đã quở trách vị Tỳ-khưu ấy rằng:

– Ngươi không phải là Sa-môn.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (105)

58. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ nhìn thấy hũ bơ lỏng nên đã thọ dụng mỗi lần một chút ít. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi không phạm tội Pārājika mà phạm tội Dukkaṭa.[5] (106)

59. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị Tỳ-khưu đã cùng nhau phân công rồi ra đi [nghĩ rằng]: “Chúng ta sẽ lấy trộm đồ vật.” Một vị đã lấy trộm đồ vật. Các vị ấy đã nói như vầy: “Chúng ta không phạm tội Pārājika. Vị nào lấy trộm, vị ấy phạm tội Pārājika.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

 

– Này các Tỳ-khưu, các ngươi đã phạm tội Pārājika. (107)

60. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị Tỳ-khưu sau khi đã cùng nhau phân công rồi đã lấy trộm đồ vật và chia phần. Trong khi được phân chia bởi các vị ấy, phần chia cho mỗi một vị không đủ năm māsaka. Các vị ấy đã nói như vầy: “Chúng ta không phạm tội Pārājika.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

– Này các Tỳ-khưu, các ngươi đã phạm tội Pārājika. (108)

61. Vào lúc bấy giờ, ở thành Sāvatthi, trong lúc có sự khó khăn về vật thực, có vị Tỳ-khưu nọ khởi tâm trộm cắp, rồi đã lấy trộm một nắm gạo của người chủ tiệm. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (109)

62. Vào lúc bấy giờ, ở thành Sāvatthi, trong lúc có sự khó khăn về vật thực, có vị Tỳ-khưu nọ khởi tâm trộm cắp, rồi đã lấy trộm một nắm đậu ...(nt)... một nắm đậu tây ...(nt)... một nắm hạt mè của người chủ tiệm. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (110-112)

63. Vào lúc bấy giờ, trong rừng Andha ở thành Sāvatthi, các kẻ trộm đã giết con bò cái rồi ăn thịt, sau khi thu xếp lại phần còn thừa, rồi đã ra đi. Các vị Tỳ-khưu tưởng là vật quăng bỏ nên đã cho người nhặt lấy rồi thọ dụng. Các kẻ trộm đã quở trách các vị Tỳ-khưu ấy rằng:

– Các người không phải là Sa-môn.

Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, vị [lầm] tưởng là vật quăng bỏ thì vô tội. (113)

64. Vào lúc bấy giờ, trong khu rừng Andha, ở thành Sāvatthi, các kẻ trộm sau khi giết con heo rừng đã ăn thịt, sau khi thu xếp lại phần còn thừa rồi đã đi. Các vị Tỳ-khưu tưởng là vật quăng bỏ nên đã cho người nhặt lấy rồi thọ dụng. Các kẻ trộm đã quở trách các vị Tỳ-khưu ấy rằng:

– Các người không phải là Sa-môn.

Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, vị [lầm] tưởng là vật quăng bỏ thì vô tội. (114)

65. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, sau khi đi đến cánh đồng cỏ khởi tâm trộm cắp, rồi đã lấy trộm cỏ được cắt sẵn trị giá năm māsaka. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (115)

66. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ, sau khi đi đến cánh đồng cỏ đã cắt cỏ, rồi khởi tâm trộm cắp và đã lấy trộm [cỏ] trị giá năm māsaka. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (116)

67. Vào lúc bấy giờ, các Tỳ-khưu vãng lai đã bảo chia phần xoài của hội chúng rồi thọ dụng. Các Tỳ-khưu thường trú đã quở trách các vị Tỳ-khưu ấy rằng:

– Các người không phải là Sa-môn.

Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

– Này các Tỳ-khưu, [khi ấy] các ngươi có tâm gì?

– Bạch Thế Tôn, chúng con có nhu cầu về thọ thực.

– Này các Tỳ-khưu, [trường hợp] có nhu cầu về thọ thực thì vô tội. (117)

68. Vào lúc bấy giờ, các Tỳ-khưu vãng lai đã bảo chia phần trái táo hồng của hội chúng  ...(nt)... trái bánh mì của hội chúng  ...(nt)... trái mít của hội chúng ...(nt)... trái chà là của hội chúng ...(nt)... mía của hội chúng ...(nt)... dưa của hội chúng, rồi thọ dụng. Các Tỳ-khưu thường trú đã quở trách các vị Tỳ-khưu ấy rằng:

– Các người không phải là Sa-môn.

Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, [trường hợp] có nhu cầu về thọ thực thì vô tội. (118-123)

69. Vào lúc bấy giờ, những người canh giữ vườn xoài dâng trái xoài đến các Tỳ-khưu. Các vị Tỳ-khưu [nghĩ rằng]: “Các người chủ bảo họ canh giữ các vật này chớ không bảo dâng các vật này” nên ngần ngại rồi không thọ nhận. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

– Này các Tỳ-khưu, trong việc bố thí của người giữ vườn thì không phạm tội. (124)

70. Vào lúc bấy giờ, những người canh giữ vườn táo hồng ...(nt)... những người canh giữ vườn cây bánh mì ...(nt)... những người canh giữ vườn mít ...(nt)... những người canh giữ vườn cây chà là ...(nt)... những người canh giữ vườn mía ...(nt)... những người canh giữ vườn dưa dâng những quả dưa đến các vị Tỳ-khưu. Các vị Tỳ-khưu [nghĩ rằng]: “Các người chủ bảo họ canh giữ các vật này chớ không bảo dâng các vật này” nên ngần ngại rồi không thọ nhận. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

– Này các Tỳ-khưu, các ngươi vô tội trong việc bố thí của người giữ vườn. (125-130)

71. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ lấy có tính cách tạm thời cây gỗ của hội chúng  để chống đỡ bức tường của trú xá thuộc về bản thân. Các Tỳ-khưu đã quở trách vị Tỳ-khưu ấy rằng:

– Ngươi không phải là Sa-môn.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

– Này Tỳ-khưu, [khi ấy] ngươi có tâm gì?

– Bạch Thế Tôn, con [lấy] có tính cách tạm thời.

– Này Tỳ-khưu, [trường hợp] có tính cách tạm thời thì vô tội. (131)

72. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ khởi tâm trộm cắp và đã lấy trộm nước của hội chúng ...(nt)... khởi tâm trộm cắp và đã lấy trộm đất sét của hội chúng ...(nt)... khởi tâm trộm cắp và đã lấy trộm cỏ muñjakita của hội chúng   ...(nt)... Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (132-134)

73. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ khởi tâm trộm cắp, và đã đốt cháy cỏ muñjakita của hội chúng ...(nt)... Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi không phạm tội Pārājika mà phạm tội Dukkaṭa. (135)

74. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ khởi tâm trộm cắp và đã lấy trộm giường của hội chúng. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (136)

75. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu nọ khởi tâm trộm cắp và đã lấy trộm ghế của hội chúng ...(nt)... nệm của hội chúng ...(nt)... gối của hội chúng ...(nt)... cánh cửa sổ của hội chúng ...(nt)... cánh cửa lá sách của hội chúng ...(nt)... đà gỗ của hội chúng. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Pārājika. (137-142)

76. Vào lúc bấy giờ, các Tỳ-khưu sử dụng sàng tọa là vật dụng trong trú xá của nam cư sĩ nọ tại địa điểm khác. Khi ấy, nam cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

– Vì sao các ngài lại sử dụng đồ đạc của địa điểm này tại địa điểm khác?

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

– Này các Tỳ-khưu, không nên sử dụng đồ đạc của địa điểm này tại địa điểm khác; vị nào sử dụng thì phạm tội Dukkaṭa. (143)

77. Vào lúc bấy giờ, các Tỳ-khưu ngần ngại di chuyển [thảm lót] đến nhà hành lễ Uposatha và phòng hội họp nên ngồi xuống ở nền nhà. Các thân mình và y phục đều bị dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

– Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép lấy đi có tính cách tạm thời. (144)

78. Vào lúc bấy giờ ở xứ Campā, vị Tỳ-khưu-ni, học trò của Tỳ-khưu-ni Thullanandā đã đi đến gia đình hộ độ Tỳ-khưu-ni Thullanandā [nói rằng]: “Ni sư muốn uống cháo gồm ba thứ”; sau khi bảo nấu đã mang đi rồi đã thọ dụng bởi chính bản thân. Vị Ni Thullanandā biết được đã quở trách vị Ni ấy rằng:

– Ngươi không phải là nữ Sa-môn.

Vị Ni ấy đã có nỗi nghi hoặc. Sau đó, vị Tỳ-khưu-ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các Tỳ-khưu-ni. Các Tỳ-khưu-ni đã kể lại sự việc ấy cho các Tỳ-khưu. Các Tỳ-khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

– Này các Tỳ-khưu, vị Ni ấy không phạm tội Pārājika mà phạm tội Pācittiya về việc cố tình nói dối. (145)

79. Vào lúc bấy giờ, ở thành Rājagaha, vị Tỳ-khưu-ni, học trò của Tỳ-khưu-ni Thullanandā đã đi đến gia đình hộ độ Tỳ-khưu-ni Thullanandā [nói rằng]: “Ni sư muốn ăn mật viên”; sau khi bảo nấu đã mang đi, rồi đã thọ dụng bởi chính bản thân. Vị Ni Thullanandā biết được đã quở trách vị Ni ấy rằng:

– Ngươi không phải là nữ Sa-môn.

Vị Ni ấy đã có nỗi nghi hoặc ...(nt).

– Này các Tỳ-khưu, vị Ni ấy không phạm tội Pārājika mà phạm tội Pācittiya về việc cố tình nói dối. (146)

80. Vào lúc bấy giờ, ở thành Vesālī, người gia chủ hộ độ Đại đức Ajjuka có hai đứa trẻ trai: [Một] là con trai và [đứa kia] là cháu trai. Khi ấy, người gia chủ ấy đã nói với Đại đức Ajjuka điều này:

– Thưa ngài, trong hai đứa trẻ trai này, đứa nào có đức tin và mộ đạo thì ngài nên thông báo cơ hội này cho đứa ấy.

Vào lúc bấy giờ, đứa cháu trai của người gia chủ ấy thì có đức tin và mộ đạo. Khi ấy, Đại đức Ajjuka đã thông báo cơ hội ấy cho đứa trẻ trai ấy. Với của cải ấy, người ấy đã bảo quản được tài sản và còn thể hiện việc bố thí nữa. Sau đó, người con trai của vị gia chủ ấy đã nói với Đại đức Ānanda điều này:

– Thưa ngài Ānanda, ai thật sự là người thừa tự của người cha, là con trai hay là cháu trai?

– Này đạo hữu, người con trai chính là người thừa tự của người cha.

– Thưa ngài, Đại đức Ajjuka này đã bảo rằng, của cải của chúng tôi là thuộc về người anh [em] họ của chúng tôi.

– Này đạo hữu, Đại đức Ajjuka không phải là Sa-môn.

Sau đó, Đại đức Ajjuka đã nói với Đại đức Ānanda điều này:

– Này Đại đức Ānanda, hãy cho tôi cuộc phân xử.

Vào lúc bấy giờ, Đại đức Upāli thuộc về phe của Đại đức Ajjuka. Khi ấy, Đại đức Upāli đã nói với Đại đức Ānanda điều này:

– Này Đại đức Ānanda, vị [Tỳ-khưu] được sở hữu chủ nói rằng: “Hãy thông báo cơ hội này cho người tên như vầy”, rồi đã thông báo cho người ấy [điều đã được dặn dò] thì vị [Tỳ-khưu] ấy phạm tội gì?

– Thưa ngài, vị ấy không phạm bất cứ tội gì, cho dù là tội Dukkaṭa đi nữa.

– Này Đại đức, Đại đức Ajjuka này được sở hữu chủ nói rằng: “Hãy thông báo cơ hội này cho người tên như vầy”, rồi đã thông báo cho người ấy [điều đã được dặn dò]. Này Đại đức, Đại đức Ajjuka không phạm tội. (147)

81. Vào lúc bấy giờ, ở thành Bārāṇasī, gia đình hộ độ Đại đức Pilindivaccha bị bọn đạo tặc cướp bóc và hai đứa trẻ trai đã bị bắt đi. Khi ấy, Đại đức Pilindivaccha, bằng thần thông, đã đưa hai đứa trẻ ấy về lại và để ở tòa nhà. Dân chúng sau khi nhìn thấy hai đứa trẻ ấy [biết rằng]: “Đây là năng lực thần thông của ngài Pilindivaccha”, rồi đã đặt trọn niềm tin nơi Đại đức Pilindivaccha. Các vị Tỳ-khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

– Tại sao Đại đức Pilindivaccha lại đưa về những đứa trẻ đã bị bọn đạo tặc bắt đi?

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

– Này các Tỳ-khưu, trong lãnh vực về thần thông, vị có thần thông thì vô tội. (146)

82. Vào lúc bấy giờ, có hai vị Tỳ-khưu là bạn bè, Paṇḍuka và Kapila. Một vị cư trú ở ngôi làng nhỏ, vị kia cư trú ở thành Kosambī. Khi ấy, trong lúc vị Tỳ-khưu ấy từ ngôi làng nhỏ đi đến thành Kosambī, ở giữa đường trong lúc lội qua con sông, có xâu thịt mỡ bị tuột khỏi tay đám thợ săn heo rừng [trôi đến] vướng vào bàn chân [vị ấy]. Vị Tỳ-khưu ấy [nghĩ rằng]: “Ta sẽ trao lại cho các người chủ”, rồi đã nhặt lấy. Các người chủ đã quở trách vị Tỳ-khưu ấy rằng:

– Ngươi không phải là Sa-môn.

Có cô chăn bò nọ, sau khi nhìn thấy vị ấy đi ngang qua đã nói điều này:

– Thưa ngài, hãy đến. Ngài hãy thực hiện việc đôi lứa.

Vị ấy [nghĩ rằng]: “Tự trong bản chất, ta không phải là Sa-môn nữa rồi” nên đã thực hiện việc đôi lứa với cô ấy, sau đó đã đi đến thành Kosambī và kể lại sự việc ấy cho các Tỳ-khưu. Các Tỳ-khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

– Này các Tỳ-khưu, vị ấy không phạm tội Pārājika trong việc trộm cắp, mà phạm tội Pārājika trong chuyện gắn bó vào việc đôi lứa. (149)

83. Vào lúc bấy giờ, ở thành Sāgalā, vị Tỳ-khưu đệ tử của Đại đức Daḷhika bị bực bội bởi sự không thỏa thích nên đã lấy trộm khăn xếp đội đầu của người chủ tiệm, rồi đã nói với Đại đức Daḷhika điều này:

– Thưa ngài, tôi không phải là Sa-môn, tôi sẽ hoàn tục.

– Này Đại đức, ngươi đã làm điều gì?

Vị ấy đã kể lại sự việc ấy. Sau khi bảo đem lại [vật ấy], vị Daḷhika đã cho định giá. Trong khi được định giá, vật ấy có giá trị không đến năm māsaka. ...(nt).

– Này Đại đức, ngươi không phạm tội Pārājika. Rồi vị ấy đã thuyết pháp. Vị Tỳ-khưu ấy đã trở nên hoan hỷ. (150)

 

Dứt điều Pārājika thứ nhì.

--oo0oo--

 

Chú thích

[1] Do sự luyến ái với tấm vải choàng nên người có tấm vải choàng ấy đã bị tái sanh làm peta ở nơi thi thể ấy. Peta có khả năng làm thi thể ấy đứng dậy. Sau khi cửa bị đóng lại, peta ấy biết đã bị mất tấm vải choàng nên đã từ bỏ thi thể ấy, rồi theo nghiệp đi tái sanh lần nữa; do đó thi thể ấy bị té ngã xuống đất (VinA. II. 374).

[2] Là tội Pācittiya thứ nhất.

[3] Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép lấy do sự thân thiết [đồ vật] của người hội đủ 5 điều: Vị quen biết, vị thân thiết, vị ấy đã nói trước, vị ấy còn sống và vị lấy biết được rằng: “Nếu được ta lấy thì vị ấy sẽ hoan hỷ” Vin. I. 296. Xem TTTĐPGVN, tập 11, tr. 380; TTPV, tập 5, Mv. II, chương VIII, tr. 211.

[4] Theo ngài Mahāsamaṇa Chao giải thích ở bộ sách Vinayamukha thì āḷhakaṃdoṇam là đơn vị đo thể tích: 1 āḷhakaṃ ước lượng khoảng 8 bụm tay, và 4 āḷhaka là 1 doṇam. Còn tulaṃ là đơn vị đo trọng lượng.

[5]  Trường hợp này, chúng ta có thể thắc mắc rằng: “Nếu tổng số bơ lỏng vị ấy đã thọ dụng trị giá bằng năm māsaka hoặc hơn năm māsaka thì vị ấy có phạm tội Pārājika hay không?” [Yếu tố “có tâm trộm cắp” được hiểu ngầm]. Đương nhiên là vị ấy phạm tội Pārājika. Tuy nhiên, trường hợp của vị này có chút khác biệt. Chúng tôi hiểu như sau về lời giải thích của ngài Buddhaghosa: Vị ấy thọ dụng mỗi lần một chút ít, như thế, trị giá bằng một māsaka hoặc kém một māsaka nên chỉ phạm tội Dukkaṭa cho mỗi lần thọ dụng. Sau khi thọ dụng lần thứ nhất, vị ấy sám hối, quyết tâm rằng: “Ta sẽ không làm như thế nữa.” Vì đã trong sạch trở lại, nên vào ngày kế, khi vị ấy thọ dụng thêm một chút ít thì lại phạm tội Dukkaṭa nữa. Vị ấy lại sám hối tội. Tiến trình phạm tội và sám hối được tiếp diễn. Chính vì lý do đó, số lượng bơ lỏng vị ấy đã thọ dụng không được tính gộp lại, mà chỉ tính riêng cho mỗi lần thọ dụng. Nếu vị ấy không sám hối tội, thì sẽ tùy theo tổng số lượng bơ lỏng vị ấy đã thọ dụng mà định tội (VinA. II. 385).